Nhưng xem xét lại tư liệu gốc thì câu chuyện 500 năm hoàn toàn là tưởng tượng. Không có thực.
Có thể tạm định rằng, đến khoảng thập niên 1870, vùng người Kinh ở Quảng Tây hiện nay vẫn thuộc đất Việt Nam.
Cho nên, việc chuyển đến vùng đó 500 năm trước (nếu có) thì vẫn là di cư trong nội địa Việt Nam (người An Nam chuyển chỗ ở trong nước An Nam). Cứ ở đó, và cứ vẫn là cư dân nước An Nam, không khác gì. Sau rồi, mấy trăm năm sau, cái chỗ chuyển cư ấy trở thành đất Trung Quốc. Chứ không phải là từ 500 năm trước đã chuyển từ An Nam sang phần đất của Trung Quốc. Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
---
Bổ sung 6 (28/1/2015): Một bài của VOV từ năm 2013.
http://vov.vn/nguoi-viet/nguoi-kinh-la-dan-toc-thieu-so-giau-nhat-o-trung-quoc-281067.vov
Bổ sung 5 (28/1/2015): Một bài về chữ Nôm được dịch ra tiếng Việt và đăng trên trên website của khoa ngữ văn, từ năm 2009.
Bổ sung 4 (28/1/2015): Bài của Nguyễn Thị Phương Châm trên talawas năm 2005.
Người Kinh là dân tộc thiểu số giàu nhất ở Trung Quốc
Thứ 3, 11:46, 17/09/2013VOV.VN -Ngoài việc làm kinh tế giỏi, dân tộc Kinh ở Trung Quốc còn luôn quan tâm, gìn giữ văn hóa ngàn đời của người Việt.
Giữa đất nước Trung Hoa rộng lớn, được nghe tiếng đàn bầu vang lên thánh thót thật ấm lòng. Ấm lòng hơn khi biết rằng tác giả của những tiếng đàn ấy là bé gái 7 tuổi Tô Minh Giang, cháu nội của nghệ nhân đàn bầu Tô Xuân Phát.
Bé Tô Minh Giang đang chơi đàn bầu (ảnh V.H) |
Trải qua hơn 500 năm sinh sống, giờ đây, người Việt ở thôn Vạn Vĩ, thị trấn Giang Bình, Thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây đã trở thành một dân tộc thiểu số của Trung Quốc. Hãnh diện hơn khi được các đồng nghiệp và cán bộ của tỉnh Quảng Tây giới thiệu, dân tộc Kinh là một trong những dân tộc thiểu số giàu nhất ở Trung Quốc.
Nghe tiếng đàn bầu của bé Tô Minh Giang
Khoan nói đến việc làm giàu của cộng đồng người Việt ở đây, điều đáng quý là những người này rất coi trọng đến việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa, phong tục tập quán truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hầu hết những người chúng tôi có dịp tiếp xúc đều nói tiếng Việt rất tốt. Nếu bình thường sẽ khó phân biệt được rằng họ là người Trung Quốc gốc Việt.
Ông Tô Xuân Phát – một nghệ nhân đàn bầu ở thôn Vạn Vĩ cho biết, việc gìn giữ và truyền dạy đàn bầu cho các thế hệ con cháu người Việt luôn được ông và các bậc tiền nhân quan tâm. Bằng lòng đam mê và tâm huyết ông không chỉ truyền dạy cho con cháu trong gia đình mà còn mở lớp dạy cho những ai yêu thích loại nhạc cụ truyền thống này của dân tộc Việt Nam. Đến nay, ông đã dạy cách đánh đàn bầu cho hơn 300 người. Nhiều học trò của ông đến từ những nơi rất xa như Hồng Kông, Ma Cao và nhiều địa phương khác ở Trung Quốc.
Ông Tô Xuân Phát đang dạy đàn bầu cho cháu gái (ảnh V.H) |
Chúng tôi đến Vạn Vĩ đúng vào dịp người Kinh nơi đây tổ chức hội đình. Sáng sớm ngày chính lễ, mùng 9/6 âm lịch, mặc dù mưa khá nặng hạt, nhưng bà con người Việt từ già tới trẻ vẫn diện trang phục lễ hội và mặc áo dài truyền thống tập trung ở sân Đình và đi rước các vị thần về mở hội. Bên cạnh việc tổ chức hội đình - một phong tục truyền thống đặc trưng của người Kinh nhằm tạ ơn các vị thần đã che chở cho người dân làm ăn sinh sống, người Kinh ở Vạn Vĩ còn lưu giữ nhiều phong tục, nghi lễ mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam như cúng cơm ông bà tổ tiên vào dịp tết Nguyên đán, rằm tháng Giêng… Không chỉ có vậy, người Việt nơi đây vẫn nói tiếng Việt, dạy chữ Nôm và lưu giữ nhiều tài liệu, sách báo, hiện vật về lịch sử dân tộc Kinh của Việt Nam.
Một góc bảo tàng của dân tộc Kinh tại Trung Quốc (ảnh V.H) |
Để nuôi dưỡng thế hệ trẻ yêu thích và phát triển nghệ thuật chơi đàn bầu, ông Tô Minh Phương – Bí Thư Chi bộ Thôn Vạn Vĩ – Thị trấn Giang Bình – Quảng Tây – Trung Quốc cho biết: “Địa phương tạo điều kiện về môi trường cho các em được học tập, bồi dưỡng từ nhỏ và chính quyền các cấp cũng có những tài trợ nhất định để các em được phát triển”.
Ngoài ra, theo ông Tô Xuân Phát, Chính phủ Trung Quốc cũng hỗ trợ người truyền dạy đàn bầu 10.000 nhân dân tệ mỗi năm. Ông Phát tâm sự: “Ngày trước không có tiền nhưng tôi vẫn dạy đàn bầu cho các cháu. Mỗi năm Nhà nước hỗ trợ 10.000 tệ nhưng chi phí vào đàn bầu cho con cháu đi học là 20.000 nhân dân tệ. Mình không thể lấy tiền đó để làm giàu được mà chỉ để phát triển văn hóa cho các con, các cháu”.
Về tín ngưỡng, dân tộc Kinh thờ nhiều vị thần, tín ngưỡng dân gian hình thành trên cơ sở tôn giáo thời nguyên thủy pha trộn Phật giáo. Vị thần mà dân tộc Kinh ở thôn Vạn Vĩ thờ phụng có liên quan mật thiết với biển như thần Trấn Hải đại vương, thờ cúng tổ tiên và các vị anh hùng dân tộc.
Dân tộc đi đầu trong phát triển kinh tế
Người Kinh ở Quảng Tây, Trung Quốc có nguồn gốc từ Đồ Sơn - Hải Phòng và Quảng Ninh. Trải qua hơn 500 năm, với hơn 10 đời sinh sống, đời sống của người họ nơi đây có nhiều đổi thay tích cực. Ngoài việc tích cực giữ gìn các nét văn hóa truyền thống của dân tộc, người Kinh ở Tam Đảo còn là một dân số thiểu số đi đầu trong việc phát triển kinh tế.
Ngôi nhà của gia đình ông Tô Xuân Phát khá bề thế (ảnh V.H) |
Đơn cử như gia đình nghệ nhân Tô Xuân Phát, hiện các con, cháu của ông đang tập trung làm nghề thu mua hải sản, và các nghề khác như du lịch, buôn bán khu vực biên giới. Riêng làm nghề biển, mỗi tháng gia đình ông Phát có thu nhập khoảng 5-7 vạn tệ. Ngôi nhà 2 tầng khang trang của ông Phát mang đậm dấu ấn của những ngôi nhà ở làng quê Việt Nam, có vườn cây sai quả, mùa nào thức ấy, có dãy chuồng lợn gà để chăn nuôi… Không gian này càng trở nên thanh bình, giống Việt Nam đến lạ khi có tiếng đàn bầu trong vắt cất lên.
Ông Tô Minh Phương – Bí thư thôn Vạn Vĩ cũng tự hào khoe rằng, với 1.320 hộ, 5.237 nhân khẩu, đây là thôn có thu nhập và đời sống khá nhất trong khu vực.
Trưởng thành từ nghề biển, ông Tô Minh Lợi - Ủy viên thường vụ chính hiệp thành phố cảng Phòng Thành, giờ đây đã trở thành một doanh nhân có tiếng ở thị trấn Giang Bình. Ông Lợi có nhiều dịp trở về Việt Nam làm ăn với các đối tác trong nước. Từ Nam tới Bắc, ông Lợi có dịp đi qua nhiều tỉnh, thành và làm ăn với nhiều người. Ông Lợi nói: “Nhờ hai nước thương mại thông thương nên bà con làm ăn cũng được. Người Kinh ở Trung Quốc không ngại làm bất cứ việc gì, chỉ cần làm đúng, có nhà nước ủng hộ. Người dân tộc Kinh thiểu số ở Trung Quốc được tạo điều kiện phát triển rất tốt. Anh em chúng tôi về Việt Nam cũng luôn được chào đón”.
Nghề biển ở Vạn Vĩ |
Tích cực giao lưu, hòa nhập với xã hội ở vùng đất mới để thích nghi, làm giàu thêm vốn văn hóa, nhưng điều quan trọng là người Kinh gốc Việt nơi đây vẫn luôn quan tâm gìn giữ, phát huy những phong tục, nghi lễ mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam./.
Một số hình ảnh tại Lễ hội truyền thống của của dân tộc Kinh tại Trung Quốc
Trang hoàng lại đình |
Trang trí những nơi sẽ diễn ra lễ hội |
http://vov.vn/nguoi-viet/nguoi-kinh-la-dan-toc-thieu-so-giau-nhat-o-trung-quoc-281067.vov
Bổ sung 5 (28/1/2015): Một bài về chữ Nôm được dịch ra tiếng Việt và đăng trên trên website của khoa ngữ văn, từ năm 2009.
Chữ Nôm thần kỳ cổ xưa của dân tộc Kinh
Vấn đề chữ Nôm của người Việt Nam được giới nghiên cứu nước ngoài quan tâm. Qua bài giới thiệu về chữ Nôm của tác giả Phụng Ngưỡng Sùng, chúng tôi thấy một thông tin thú vị. Đó là ở Quảng Tây (Trung Quốc) có tộc người Kinh gốc từ Việt Nam tiếp cận và nghiên cứu người Việt và văn hóa Việt ở Trung Quốc hiện nay. vẫn còn lưu giữ và xuất bản những tác phẩm văn học truyền thống viết bằng chữ Nôm mà họ quí trọng, xem như bảo bối. Tấm lòng người dân Việt đối với đất nước vẫn luôn luôn thao thức và sâu sắc. Đây là cơ hội cho giới nghiên cứu Việt
Xin lược dịch bài viết với nội dung như trên của tác giả Phụng Ngưỡng Sơn sau đây:
Dân tộc Kinh 2 có văn tự riêng của họ. Chữ Nôm, ca dao, tục ngữ, cách ngôn, những câu chuyện truyền thuyết và các loại tôn giáo tín ngưỡng, v..v… của người Kinh đều có những tư liệu lịch sử tương ứng, mà những kho tàng tư liệu này chính là dùng chữ Nôm để ghi chép lại.
Khi đến Thái Phong, Tam Đảo3 của người Kinh, tôi đã từng nhiều lần được gặp gỡ học giả Tô Duy Phương người Kinh. Khi đến nhà ông, tôi có may mắn được nhìn thấy kho tàng tư liệu lớn. Những tài liệu sưu tầm được ông quý như ngọc ngà. Ông không chỉ phân loại rõ ràng, đánh số thứ tự, mà còn tìm nhiều cách chống ẩm mốc và bụi bặm cho sách. Những cuốn sách và tài liệu cổ sử dụng chữ Nôm này, nếu nhìn qua thì rất giống chữ Hán phồn thể viết tay thường thấy trong dân gian, thậm chí người đọc còn hiểu nhầm là nếu liên hệ văn bản trên dưới thì nhờ đó có thể nhận mặt được một số chữ, nhưng không ngờ ngay cả một chữ cũng không thể nhận biết được. Cho dù là trong văn bản có rất nhiều chữ đơn vốn chính là chữ Hán, thế nhưng những “chữ Hán” cô lập này trong văn bản đó lại hoàn toàn không phải mang ý gốc của nó. Do vậy, đọc chữ Nôm của người Việt thật như là xem “sách Trời” vậy.
Như thế, chữ Nôm của người Kinh rốt cuộc là loại văn tự như thế nào? Ông Tô chỉ dẫn, giới thiệu cho tôi mấy bài ca dao phiên dịch sắp xuất bản của ông, như: Tống Trân ca, Kim Vân Kiều truyện, Lưu Bình Dương Lễ kết nghĩa ca, v.v... Trong lúc trò chuyện, được biết đây mới chỉ là một hai phần tính ra trong toàn thể chữ Nôm của người Việt thôi. Ông Tô nói với tôi, “Nôm tự” còn có thể đảo ngược lại gọi là “chữ Nôm”, trong trường hợp thông thường thì gọi là “Nôm tự”. Nhưng bất kể là gọi như thế nào, kỳ thực thứ chữ này chính là mượn chữ Hán và học theo nguyên lý cấu tạo của chữ Hán để tái tạo văn tự khối vuông. Vấn đề ở chỗ, đã là chữ Hán hay học theo chữ khối vuông thì tại sao gọi là “chữ Nôm” chứ? Ông Tô trả lời là: vì chữ Nôm là “văn tự của nước Nam”. Như vậy, “nước Nam” lại là quốc gia ra sao? Ông cho biết ở Đình Ha4, Lịch Vĩ5 có câu đối đã nói rõ việc này một cách gián tiếp. Câu đối viết là: “Xưa tại Thành Nguyên Lệ của nước Nam có sự bền vững đời đời của núi sông; Nay triều đại nước Bắc ở thôn Kính Nghiêm lưu lại di phong của xã tắc”. Tương truyền đối liễn này của người Kinh từ sau khi người Việt Nam dời sang ở Lịch Vĩ, do người đầu tiên đời thứ tư của dòng họ Tô là Tô Quang Thanh viết, thời gian đoán định là khoảng năm 1888. Hiển nhiên, “Nam bang” ở đây cũng chính là chỉ Việt Nam. Chữ Nôm thực ra đến từ Việt Nam. Ngày xưa, trước khi dùng văn tự Latin, trong một thời gian dài, người Việt Nam đã cùng lúc sử dụng chữ Hán, họ dùng bộ thủ chữ Hán, y cứ theo âm đọc của tiếng Kinh mà sáng tạo ra một loại văn tự. Về vấn đề quá trình và thời gian bắt đầu dùng chữ Nôm của người Việt, thì đến nay, giới nghiên cứu văn tự học vẫn đang tranh luận. Nhưng căn cứ theo cách nói bảo thủ nhất cũng thấy rằng: việc sử dụng chữ Nôm bắt đầu thịnh hành từ sau thế kỷ thứ 6 sau công nguyên. Bên cạnh đó, trong tác phẩm bài ca chữ Nôm Tống Trân ca thì những câu chuyện được ghi chép, kể lại có liên quan đến 10 nước thời Ngũ Đại cho thấy chính xác là tác phẩm này được hình thành từ sau khi chữ Nôm được thịnh hành. Có thể thấy chữ Nôm của người Kinh có một nguồn gốc lịch sử văn hóa rất sâu dày.
Chữ Nôm có gốc rễ từ chữ Hán, nguyên tắc và phương pháp cấu tạo chữ của chúng tự nhiên cũng có chỗ giống hoặc tương tự, như loại cấu tạo hình thanh, hội ý, giả tá, v..v.. Nhưng chữ Nôm của người Kinh lại có chỗ độc đáo riêng của nó. Theo thống kê, chữ Nôm của người Kinh có hơn 37.000 chữ, chủ yếu thuộc mấy loại hình cấu tạo dưới đây:
Một là loại chữ Nôm giả tá. Đây là loại chữ Nôm đơn thuần mượn âm chữ Hán để biểu ý, cách này gọi là cách mượn chữ Hán. Loại chữ Nôm này tương đối nhiều, ước tính chiếm khoảng hai phần ba tổng số chữ Nôm. Đặc điểm của loại chữ Nôm này là mượn dùng âm phù của chữ Hán để đọc theo ngữ âm của người Kinh, đồng thời, thông qua ngữ âm của người Kinh phản ánh ý nghĩa đã được chỉ định của chữ. Chẳng hạn như: thời xưa người Kinh gọi cha là “布Bố”, gọi mẹ là “蓋Cái”. Nếu mượn âm “布蓋bố cái” của chữ Hán để biểu thị ý cha mẹ của người Kinh, vậy thì “布蓋bố cái” chính là nghĩa “cha mẹ”. Tự nhiên “布bố” “蓋cái” cũng chính là chữ Nôm. Có khi thậm chí nguyên cả câu cũng đều mượn âm Hán để biểu ý. Ví dụ như sáu thanh phù “胡公決計乘機Hồ Công Quyết kế thừa cơ” mượn chữ Hán, để biểu thị ý “梅骨格雪精神Mai cốt cách, Tuyết tinh thần”. Có những chữ Nôm giả tá còn thêm ký hiệu, cũng có công hiệu bổ trợ để biểu ý. Như thêm chữ “口khẩu” ở bên cạnh để biểu thị chữ đó có liên quan đến miệng.
Loại thứ hai là chữ Nôm hình thanh. Loại chữ hình thanh trong chữ Hán là đem ý phù biểu ý và thanh phù biểu âm kết hợp hình thành chữ. Ví dụ: chữ “箕cơ” trên hình dưới thanh, trong đó bộ “竹trúc” chỉ ý, chữ “其kỳ” biểu âm. Trong chữ Nôm của người Kinh cũng có rất nhiều chữ tương tự kiểu này. Loại chữ Nôm này thông thường do hình thể của hai chữ Hán, một chữ biểu âm, một chữ biểu ý kết hợp mà thành. Do đó, loại chữ này còn gọi là chữ Nôm kết hợp thể hình thanh - âm ý. Điểm không giống với chữ Hán là loại chữ Nôm này dùng thanh phù của chữ Hán để thể hiện âm đọc của người Kinh, nhưng lại sử dụng ý phù để biểu thị ý gốc của chữ Hán đó. Như chữ “年niên”, trong chữ Nôm bên trái thêm thanh phù “南nam”, âm “南nam”, viết là “南年nam niên” (năm). Đặc điểm của chữ Nôm hình thanh, nhìn từ trên kết cấu vị trí của bộ phận âm ý thì thường là trái thanh phải hình. Nhưng cũng có chữ trái hình phải thanh, theo loại này còn có trên hình dưới thanh, dưới hình trên thanh, ngoài hình trong thanh, trong hình ngoài thanh, v..v..
Loại thứ ba là chữ Nôm hội ý. Chữ Hán hội ý là loại chữ tập hợp ý nghĩa của hai chữ bộ phận trở lên để biểu thị ý nghĩa của toàn chữ. Như chữ “日nhật” và “月nguyệt” hợp thành “明minh”, ba chữ “人nhân” hợp thành chữ “眾chúng”, v..v… Chữ Nôm của người Kinh cũng có loại chữ tương tự, loại chữ Nôm này thông thường mượn hai chữ Hán hợp thành chữ mới. Như chữ “天thiên”, trong chữ Nôm thì phải đặt “天thiên” ở trên, bên dưới thêm chữ “上thượng” để hội ý (nghĩa là “trời”).
Chữ Nôm của người Việt trở thành công cụ để giao lưu ngôn ngữ và môi giới. Công năng, tác dụng của nó nay tuy đã suy yếu, nhưng nó là bộ phận cấu thành quan trọng trong di sản văn hóa của người Việt, không nghi ngờ gì nữa, đích thị là tài sản hết sức quý báu.
Vũ Xuân Bạch Dương dịch
Nguồn: Nhật báo Phường Thành Cảng 6
Chịu trách nhiệm biên tập: Hoàng Thiếu Đặng
CHÚ THÍCH
Phụng Ngưỡng Thành: sinh năm 1963, người dân tộc Diêu, quê ở Phú Xuyên, Quảng Tây, là nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật lão thành của Trung Quốc.
Dân tộc Kinh: là dân tộc thiểu số sống ở Quảng Tây, Trung Quốc, chính là người Việt Nam di dân từ đầu thế kỷ thứ 16. Họ mang trong mình đầy đủ nét văn hóa đặc sắc, đậm đà của dân tộc Việt Nam, trong đó có cả chữ Nôm-kho tàng ngôn ngữ cổ của người Việt.
Tam Đảo: là một địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Ha Đình: là ngôi đình mà người dân tộc Kinh ở Quảng Tây, Trung Quốc thường đến tổ chức những buổi ca hát văn nghệ để đón tết Ha (tết ca hát), thờ cúng tổ tiên hay thánh thần.
Lịch Vĩ: là một địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Nhật báo Phường Thành Cảng: là tờ báo điện tử của thành phố Phường Thành Cảng-khu tự trị của dân tộc Tráng nằm về phía Quảng Tây, thuộc Trung Quốc.
神奇古老的京族喃字
奉仰崇
京族拥有本民族的文字:喃字,京族的歌谣、谚语、格言、故事传说和宗教信仰等,都有相应的历史文献资料,而这些文献资料就是用喃字记载的。
到京族三岛采风,我曾经多次拜访京族学者苏维芳先生。就在苏先生家,我有幸看到了大量的京族文献。苏先生对所收集的资料惜如至宝,不仅分类清楚、码放有序,而且采取了防潮防尘措施。这些古本京族文献所使用的京族喃字,乍一看,颇像民间常见的手抄繁体汉字,以至误以为联系上下文便能认识一些,不料竟一个字也没认出来。尽管文中有许多单个字就是汉字本身,但这些孤立的“汉字”在文中却并非汉字本意。因此,阅读这些似曾相识的京族喃字,实则如看天书一般。
那么,京族喃字究竟是怎样一种文字呢?苏先生引领我介绍他即将翻译出版的几本歌谣。如《宋珍歌》、《金云翘传》、《刘平杨礼结义歌》等。闲谈间,这才对京族喃字总算略知一二。苏先生告诉我,喃字又可以倒过来称为字喃,一般情况下就叫喃字。但不管怎么叫,其实就是假借汉字和仿效汉字结构原理和方法再创造的方块文字。问题是,既是汉字或仿效汉字的方块字,为什么叫喃字呢?苏先生答曰,因为喃字是“南国的文字”。那么,“南国”又是什么国度呢?他说氵万尾哈亭有一副对联做了间接的说明。对联曰“古在南邦成原例山河之永固;今朝北国敬严村社稷之遗风”。相传对联系京族人从越南迁居氵万尾后,由苏家第四代头人苏光清所写,时间推断为1888年。显然,这里的“南邦”也就是指越南。喃字其实来自越南。早在使用拉丁文字之前,越南在长期使用汉字的同时,就利用汉字的部首偏旁,依据京语的读音,创造了一种新文字。至于京族人使用喃字起始时间和过程,文字学界至今仍有争论,但据最保守的说法亦认为:喃字的使用自公元六世纪后开始盛行。而京族的《宋珍歌》喃字歌本,所记述的关于五代十国的故事,恰恰就是在喃字盛行之后形成的。可见京族喃字有很深的历史文化渊源。
喃字既根源于汉字,其造字的原则和方法自然有共同或相似之处,如形声、会意、假借等。但京族喃字又有其独特的地方。据统计,京族喃字多达37000个,按造字方法分类,主要有以下几种类型。
一是假借喃字。这是单纯借汉字声符表意的喃字,其方法又叫借汉字法。这类喃字较多,约占喃字总数的三分之二。这类喃字的特点是借助汉字声符读京族语音,并通过京族语音反映特定的意义。如,古时候京族人称父亲,音为“布”;称母亲,音为“盖”。如果借汉字“布盖”之音表京族父母之意,那么“布盖”就是父母的意思。自然“布”“盖”也就是喃字。有时甚至整句话都是借音表意。如,借汉字“胡公决计承机”六个声符,表的是“梅骨格雪精神”的意思。有的假借喃字另外加符,也有辅助表意的功效。如加“口”字旁表示与嘴有关。
二是形声喃字。汉字中的形声字,是将意符和声符组合由意符表意声符表音所形成的字。如,上形下声的“箕”字,“竹”表意,“其”表音。在京族喃字中,同样也有很多此类字符。这类喃字一般由表音和表意两个完整的汉字形体合并而成。因此,这类字又叫形声音意合体喃字。与汉字不同的是,喃字用汉字的声符表京族语音,却用汉字意符表汉字本意。如“年”字,喃字在左边加声符“南”,音南,写作“南年”。形声喃字的特点,从音意部位的结构上看,通常是左声右形。但也有左形右声的,依此类推还有上形下声、下形上声、外形内声、内形外声等。
三是会意喃字。汉字的会意是集合两个以上的的字来表示一个意义的字。如“日”“月”合成为“明”,三个“人”合成为“众”字等等。京族喃字也有同类型的字,这类喃字一般借用两个汉字合并形成新字。如“天”字,喃字要在“天”下面加“上”来会意。
京族喃字,作为语言交流的工具与媒介,其功能作用如今虽已退化。但作为京族文化遗产的重要组成部分,无疑是极其宝贵的。
来源:防城港日报 责编:黄少邓
Bổ sung 4 (28/1/2015): Bài của Nguyễn Thị Phương Châm trên talawas năm 2005.
20.12.2005
Nguyễn Thị Phương Châm
Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc, trong đó người Kinh là một trong 55 dân tộc thiểu số chiếm số lượng khiêm tốn 18.700 người so với một số dân tộc khác như người Choang 15.555.800 người, người Di 6.578.500 người,... [1] Trên các trang web, bản đồ, các sách tổng quan chung về các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc hiện nay [2] khi giới thiệu về dân tộc Kinh thường ghi ngắn gọn về địa bàn cư trú tập trung nhất của họ là ở Kinh Đảo thuộc trấn Giang Bình, thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây. Kinh Đảo bao gồm 3 hòn đảo (Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu) mà từ năm 1971 đến nay đã lần lượt thành bán đảo, vì thế còn có tên là Tam Đảo. Sau thời gian điền dã ở Kinh Đảo chúng tôi nhận thấy việc giới thiệu về người Kinh ở Trung Quốc trên các phương tiện thông tin đại chúng như vậy là đúng nhưng chưa đủ. Đúng là người Kinh ở Quảng Tây tập trung phần lớn ở Tam Đảo, trấn Giang Bình nhưng ngoài khu vực Tam Đảo, trong trấn Giang Bình người Kinh còn tập trung ở 4 nơi khác nữa là các làng Hạnh Vọng, Hồng Khảm, Đầm Cát [3] và khu vực chợ Giang Bình. Chính vì vậy, trong bài viết này chúng tôi mong muốn đưa đến cho bạn đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về địa bàn cư trú và một số vấn đề văn hoá xã hội của dân tộc Kinh ở Giang Bình. Thêm nữa chúng tôi cũng muốn tìm hiểu tại sao nói đến người Kinh ở Trung Quốc và Quảng Tây, người ta lại chỉ thường nói đến Kinh Đảo.
Người Kinh ở Giang Bình hiện tập trung sinh sống trong 6 làng và một khu phố chợ:
- Vạn Vĩ: diện tích 13,7km2, 1.002 hộ, 4062 khẩu, 23 đội sản xuất; người Kinh có khoảng 2.800 khẩu, chiếm 69%. Vạn Vĩ là thôn có nhiều người Hán, Choang, Nguồn (tiếng địa phương chỉ chung các dân tộc thiểu số khác từ trên miền núi xuống) cùng sinh sống. Người Kinh ở Vạn Vĩ có 12 họ: Cao, Hoàng, Bùi, Vũ, Tô, Nguyễn, Cung, Ngô, La, Khổng, Lương, Đỗ trong đó 3 họ lớn nhất là Tô, Nguyễn, Đỗ.
- Vu Đầu: diện tích là 5,13km2, 1.600 khẩu, 6 đội sản xuất, 90% là người Kinh. Vu Đầu cách Vạn Vĩ 6km theo trục đường chính nối từ bãi biển đến chợ Giang Bình. Vu Đầu cũng có 12 họ: Bùi, Đào, Đoạn, Lê, Nguyễn, Hà, Vũ, Hoàng, Khổng, Phan, Ngô, Lưu trong đó 3 họ lớn là Lưu, Ngô, Nguyễn.
- Sơn Tâm: diện tích là 7km2, 1.700 khẩu, 7 đội sản xuất, hơn 95% là người Kinh, rất hiếm người Hán. Sơn Tâm cách Vạn Vĩ 13km cũng theo đường chính (qua chợ Giang Bình, rẽ phải xuống làng). Sơn Tâm cũng có 12 họ: Lưu, Nguyễn, Đỗ, Bùi, Lê, Hoàng, Lý, Vũ, phan, Ngô, Võ, Cung.
- Hạnh Vọng: là làng nhỏ, có 400 người, 85 hộ trong đó hầu hết là người Kinh, người Hán chỉ có khoảng 20-30 người, diện tích hơn một km2. Đây là một làng đạo [4] toàn tòng, tên làng được dân chúng dịch nghĩa ra là “có lòng mong đợi cha về”. Hiện làng có các dòng họ sau: Lê, Nguyễn, Đào, Trần, Bùi, Hoàng trong đó họ Lê là đông nhất, sau đó đến họ Nguyễn, các họ khác khá ít, nhất là họ Hoàng chỉ có vài người.
- Hồng Khảm (còn gọi là Đầm Thạch): từ chợ Giang Bình đi vào gần làm theo lối rẽ thẳng cổng chợ xuống. Cả thôn có 625 người, 156 hộ, diện tích khoảng hai km2 trong đó khoảng 60% là người Kinh với các họ: Phạm, Nguyễn, Ngô, Phùng, Trần, Lưu, Bùi, cư trú cùng với 3 họ người Hán là Lâm, Lý, Thẩm.
- Đầm Cát: có diện tích: 1,3 km2, 278 hộ, 1.398 người, người Kinh có 980 người, còn lại là người Hán, Choang, Tạng, Dao. Người Kinh có 4 họ: Nguyễn, Lê, Bùi, Tăng, cùng 3 họ người Hán nữa là Hoàng, La, Trần.
- Chợ Giang Bình: riêng khu vực này người Kinh không quần tụ thành làng mà do nhu cầu làm ăn buôn bán họ chuyển từ các làng đến phố chợ này. Hiện nay nhiều gia đình ở các làng (chủ yếu là Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu) vừa có nhà ở Giang Bình để buôn bán, vừa vẫn có nhà ở làng. Giang Bình là chợ lớn của khu vực với việc buôn bán tấp nập nên dân từ các làng người Kinh chuyển đi chuyển về liên tục rất khó thống kê được chính xác số hộ người Kinh hiện tại ở đây, theo ước tính của người dân có khoảng hơn 100 hộ cư trú dọc theo các phố chợ. Mặc dù định cư ở phố chợ nhưng đa số họ vẫn là người dân của các làng người Kinh nên vẫn có chung nguồn gốc dân tộc và văn hoá, họ vẫn tham dự hầu hết các hoạt động chính trị, kinh tế và văn hoá với các làng người Kinh. Vì vậy sự tìm hiểu tiếp theo của chúng tôi tập trung vào 6 làng người Kinh đã liệt kê ở trên.
Số lượng người Kinh ở Giang Bình như chúng tôi đã ghi lại là do số lượng cũng như thành phần dân tộc Kỉnh giữa sự quản lý hành chính chính thức của chính phủ và sự thừa nhận của dân chúng. Theo ý kiến của dân chúng, nhất là ở các làng Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu thì có sự phân biệt khá rõ ràng giữa người Kinh gốc, người Kinh tự nhận, người Kinh mới và ngườiKinh theo. Người Kinh gốc là người Kinh đã định cư ở các làng trên từ 5 đời đến 10 đời, còn duy trì tiếng Kinh và nhiều phong tục tập quán Kinh; người Kinh mới là những người đến Giang Bình rải rác từ khoảng đầu thế kỷ 20 đến nay chủ yếu là những người buôn bán, đi tàu, lao động ở các bến bãi gần chợ Giang Bình và Đầm Cát, họ học phong tục Hán, nói tiếng Hán để phục vụ cuộc sống và rất ít có liên hệ với ngời Kinh gốc đã ở Giang Bình trước đó; người Kinh tự nhận là không ít người Hán tự nhận là người Kinh trong chính sách dân tộc của chính phủ Trung Quốc những năm 80 (khi đó chính phủ để cho dân tự khai về thành phần dân tộc của mình), kết quả là nhiều người Hán ở Vạn Đông (Vạn Vĩ) ở Đầm Cát và rải rác trong các làng khác đã tự khai ông, bà tổ tiên của họ là người Kinh để được công nhận và hưởng những quyền lợi ưu tiên cho người Kinh trong tư cách là một dân tộc thiểu số. Trên thực tế họ không hề biết tiếng Kinh và xa lạ với lịch sử và phong tục tập quán của người Kinh; người Kinh theo là những người Hán hoặc các dân tộc thiểu số khác kết hôn với người Kinh, con cái họ sau một vài đời cũng được coi là người Kinh. Trong bối cảnh như thế một số người mặc dù trong giấy tờ chính thức của chính phủ vẫn là người Kinh nhưng trong cộng đồng người Kinh ở Giang Bình thì vẫn có sự phân biệt nhất định tuy rằng sự phân biệt này dường như chỉ gắn với niềm tự hào của những người Kinh gốc trên địa bàn mà không thành vấn đề gì ảnh hưởng đến quan hệ cộng đồng. Chúng tôi nhận thấy sự tương đồng và khác biệt giữa các thành phần người Kinh, giữa các làng người Kinh ở Giang Bình thể hiện rõ hơn khi xem xét đến các yếu tố văn hoá, xã hội của họ.
Về nguồn gốc dân tộc, tất cả các làng trên đều nhận rằng tổ tiên họ là người Đồ Sơn và Thanh Hóa (Việt Nam) đã di cư đến vùng biển Giang Bình được từ 5-10 đời, khai phá Tam Đảo đầu tiên, sau đó mới đến các khu vực khác. Ở các làng đều lưu truyền câu chuyện về tổ tiên của họ là những người đánh cá đến Giang Bình bằng bè, mảng, thấy đất này là ngư trường và lâm trường tốt nên ở lại. Lúc đầu họ gặp rất nhiều khó khăn, dần dần người đông đúc thành làng, thành xóm, nơi thờ tự cũng được lập nên và cuộc sống phát triển ổn định. Như vậy người Kinh ở Giang Bình có sự thống nhất về nguồn gốc.
Từ trong lịch sử khai phá, cơ cấu nghề nghiệp của tất cả các làng người Kinh ở Giang Bình giống nhau là khai thác: biển và rừng, ruộng đất để canh tác rất ít mặc dù người dân cũng đã bỏ ra nhiều công sức để đắp đê lấn biển, cải tạo đất bãi thành ruộng. Nhưng sau mấy trăm năm định cư, cơ cấu nghề nghiệp ấy đã thay đổi đáng kể và có sự khác nhau giữa các làng. Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu khá giống nhau ở cơ cấu nghề nghiệp. Hiện hầu như không còn ai làm ruộng, nghề truyền thống là đi bè đánh cá, kéo lưới, khai thác ven bờ cũng chỉ còn khoảng 40% người làm, còn lại là các nghề nuôi hải sản, buôn bán và dịch vụ du lịch. Ngay cả trong 40% làm nghề biển ấy thì cũng có sự kết hợp, ít hộ làm chuyên chỉ nghề khai thác biển. Với cơ cấu nghề nghiệp năng động như vậy nên thu nhập của người Kinh 3 làng này rất khá, trung bình khoảng 4300 Nguyên [5] /người/năm (thời điểm năm 2003). Với làng Hạnh Vọng do vị trí ngay sát chợ Giang Bình, bãi biển do bị bồi nên đã ngày càng lùi ra xa làng nên dân làng không còn khai thác biển được bao nhiêu, nếu muốn làm phải sang bãi của Sơn Tâm để làm. Vì thế hiện nay dân làng chủ yếu làm buôn bán, cải tạo ruộng, vườn trồng các loại rau xanh mang ra chợ Giang Bình bán. Thu nhập của dân làng so với 3 làng trên thì kém hơn, chỉ khoảng 3000 Nguyên/người/ năm (thời điểm năm 2003). Cũng không còn nhiều người làm biển nhưng Hồng Khảm vẫn duy trì nghề này do bãi, lạch, ngòi từ biển vẫn còn khá gần làng thuận lợi cho việc khai thác ngao, sá sùng, móng tay, làm đăng, làm dậu,... Tuy vậy dân làng cũng đã đi làm buôn bán nhiều và cũng làm thêm ruộng, vườn trồng rau, hoa màu. Thu nhập của dân làng cũng cùng mức với làng Hạnh Vọng. Do đặc thù địa lý là nhiều bến bãi, nơi neo đậu tàu thuyền, đầu mối giao thương nên Đầm Cát hiện nay phát triển nghề buôn bán than và nhiều loại hàng hoá khác với Việt Nam và các vùng phụ cận. Một số phụ nữ và người già trong thôn thì vẫn khai thác biển nhưng chỉ là khai thác nhỏ, ven bờ với ngư cụ đơn giản. Do buôn bán phát triển nên thu nhập của người Kinh ở đây cao tương đương với Vạn Vĩ, năm 2003 đạt hơn 4000 Nguyên/người. Mặc dù cơ cấu nghề nghiệp và thu nhập của các làng có khác nhau nhưng nhìn chung người Kinh ở Giang Bình có cuộc sống ổn định và ngày càng giàu có...
Về văn hoá, xét bề nổi, các làng tương đối giống nhau vì đều được bao trùm bởi văn hoá Hán nhưng mức độ Hán hoá và bảo lưu các yếu tố văn hoá cổ ở mỗi làng có sự khác nhau rõ rệt. Trước hết về ngôn ngữ, trong 6 làng hiện chỉ còn Sơn Tâm và Vu Đầu còn đông người nói tiếng Kinh nhất, Vạn Vĩ cũng đông người nói giỏi tiếng Kinh nhưng vì là đảo lớn, định cư đan xen với người Hán nhiều lại là khu du lịch nên quá trình giao lưu diễn ra mạnh mẽ hơn, trong làng dân chúng không thường xuyên nói tiếng Kinh như ở Sơn Tâm, Vu Đầu. ở Hạnh Vọng và Hồng Khảm người nói giỏi tiếng Kinh còn khá ít, hầu hết là các cụ già từ 70 tuổi trở lên, tầm 50–70 cũng có một số người còn biết nghe nhưng dưới tuổi đó thì đã không còn cả nghe được nữa. Riêng Đầm Cát thì trong suốt thời gian điền đã chúng tôi đã không còn tìm được ai nói được tiếng Kinh nữa. Một số cụ già đã trên 70 tuổi kể lại rằng đời cha các cụ cũng chỉ nói được ít câu.
Cùng với ngôn ngữ, các yếu tố văn hoá cổ Kinh tộc cũng được bảo lưu đậm nét hơn cả ở 3 làng Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu. 3 làng này có đầy đủ đình, chùa, miếu. Đình cả 3 làng cùng thờ 3 vị là Bạch Long trấn hải đại vương, Đức Thánh Trần, thành hoàng bên cạnh các vị thần khác. Chùa thờ Phật và thờ bà chúa Liễu Hạnh, miếu thờ các vị thổ thần; thổ địa và các vị thần linh khác. Cùng với hệ thống di tích, 3 làng này còn duy trì được ngày hội đình kéo dài trong 7 ngày với đầy đủ lễ rước tế long trọng, tục hương ẩm, hát đình,... mang đậm nét văn hoá truyền thống Kinh tộc. Làng Hồng Khảm cũng có đình thờ bách thần và chư vị gia tiên và cũng duy trì lễ hội nhưng không tổ chức được lớn, đầy đủ các lễ và chu đáo như ở Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu. Ở Đầm Cát không có đình, chùa gì, chỉ có một vài ngôi miếu nhỏ của người Hán và cũng không có hội hè gì. Riêng Hạnh Vọng là xóm đạo nên ở làng này không có đình, chùa, miếu như các làng Kinh khác mà chỉ có nhà thờ ngay đầu làng. Sau khi nhà Thanh và Pháp đã ký hiệp ước thừa nhận quyền truyền giáo của Pháp ở Trung Quốc năm 1844, nhiều nơi trong đó có Hạnh Vọng thiết lập cao đường [6] Thiên Chúa và người dân theo đạo từ đó. Do là xứ đạo nên dân làng coi trọng và thực hành các nghi lễ tôn giáo như: lễ Phục sinh, Noel, ngày Đức Thánh hiện xuống,... mà không theo lịch tiết truyền thống của người Kinh.
Người Kinh ở Giang Bình tự hào về đặc sắc văn hoá là lời ca tiếng hát đối đáp trữ tình, về tiếng đàn bầu được người Hán coi là "độc hữu Kinh tộc". Cả hai yếu tố văn hoá này này chỉ còn được bảo lưu sống động ở Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu. Ngoài ra trong các lễ tiết, trong sinh hoạt và sản xuất người Kinh ở Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu còn duy trì được nhiều tập tục truyền thống của ngời Kinh như lễ chạp mộ [7] vào trước Tết, tục giỗ họ, lễ vào làng, kinh nghiệm trong nghề biển,... Chúng tôi nhận thấy (và người dân cũng thừa nhận) rằng sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở 3 làng Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu đã là nền tảng quan trọng thúc đẩy việc phục hồi và phát triển nhiều yếu tố văn hoá truyền thống: di tích được dựng lại khang trang, nhà văn hoá cho hoạt động ca hát được xây dựng và thường xuyên có nguồn chi phí cho hoạt động đó, các trí thức trong làng mở lớp dạy tiếng Kinh, chữ Nôm miễn phí,...
Trong 6 làng người Kinh ở Giang Bình, lớn nhất và có vị trí trung tâm nhất là Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm, việc buôn bán và cả khai thác biển ở cả 3 làng này cũng tấp nập và thuận lợi nhất: biển bãi rộng, đường lớn đi lại dễ dàng, có sự giao lưu rộng mở, việc học hành của dân làng cũng được chủ động với trường lớp tốt và ngay ở làng nên số lượng người học cao và đi công tác cũng nhiều nhất. Hơn thế nữa 3 làng này xét tổng thể có nhiều nét tương đồng và có sự cố kết với nhau bền chặt hơn và cùng khác khá nhiều so với 3 làng còn lại.
Như vậy người Kinh ở Giang Bình hiện đang tập trung sinh sống ở 6 làng và khu vực chợ trung tâm. Mỗi làng một đặc điểm riêng nhưng nhìn chung đặc sắc văn hoá, xã hội Kinh tộc đã khá nhạt nhoà ở Hạnh Vọng, Hồng Khảm và Đầm Cát nhưng 3 làng này vẫn là thành phần không thể thiếu trong bức tranh dân tộc Kinh ở Giang Bình. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong tên gọi Kinh Đảo đã hàm chứa vai trò trung tâm của Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu so với các làng người Kinh khác. 3 làng này có lịch sử định cư dài nhất ở Giang Bình, có đông dân nhất, diện tích lớn nhất, vị trí trung tâm nhất và có kinh nghiệm về nghề biển nhất và cũng lưu giữ được nhiều yếu tố văn hoá cội nguồn nhất. Ngoài ra 3 làng này còn sự giao lưu văn hoá rộng mở, buôn bán nội vùng, ngoại vùng và quốc tế tấp nập, hiện nay lại có đời sống kinh tế khá nhất. Hội tụ được đầy đủ các yếu tố: lịch sử tự nhiên, xã hội và con người, Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu xứng đáng giữ vị trí trung tâm, là khu vực mang đặc trưng Kinh tộc nhất để mỗi khi nhắc đến người Kinh ở Trung Quốc, người ta nói đến Kinh Đảo đầu tiên.
[1]Số liệu từ website giới thiệu về 56 dân tộc thiểu số Trung Quốc: www.c-c-c.org/chineseculture/minority/minority.html
[2]Xem: Gia đình các dân tộc Trung Quốc: Dân tộc Kinh, Vân Nam Nhân dân Xuất bản xã, Vân Nam Đại học Xuất bản xã (?), 2003; Website: www.taishan.com/english/families/jing.htm, www.china.org.cn/e-groups/shaoshu/shao-jing.htm.
[3]Mặc dù theo sự quản lý hành chính thì các địa danh này đều là thôn nhưng trong tâm thức dân chúng và thực tế cách gọi của họ thì những nơi này là làng.
[4]Thiên chúa giáo (BT)
[5]Đồng Nhân dân Tệ (BT)
[6]Nhà thờ (BT)
[7]Có lẽ là Tảo mộ chăng? (BT)
Bổ sung 3 (28/1/2015): Bài trên Tuổi Trẻ, từ năm 2005.
Làng quê Việt trên đất Trung Hoa
15/07/2005 07:44 GMT+7Bài & ảnh: ĐỖ HỮU LỰC
TT - Anh Tô Minh Bân - người đầu tiên tôi gặp ở làng chài Vạn Mỹ (xã Giang Bình, thị xã Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc), cách biên giới 25km - cứ nắm chặt tay tôi sau lời giới thiệu, anh lập cập nói: “Mình cũng là người Kinh mà, cả nhà mình đều nói được tiếng Việt đấy!”.
Một gian hàng bán thức ăn, hoa quả trên bãi biển Vạn Mỹ |
TT - Anh Tô Minh Bân - người đầu tiên tôi gặp ở làng chài Vạn Mỹ (xã Giang Bình, thị xã Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc), cách biên giới 25km - cứ nắm chặt tay tôi sau lời giới thiệu, anh lập cập nói: “Mình cũng là người Kinh mà, cả nhà mình đều nói được tiếng Việt đấy!”.
Nói xong, anh kêu đứa con gái lớn đang lúi húi trong quầy hàng ra chào khách: “Linh ơi, có khách từ Việt Nam sang đây này”.
“Núi liền núi, sông liền sông...”
Anh Bân cho hay hầu hết cư dân trên đảo Vạn Mỹ là người gốc Hải Phòng, định cư tại vùng đất này được khoảng 9-10 đời. “Tổ tiên tôi là người gốc Đồ Sơn (Hải Phòng), định cư từ thế kỷ 17, theo gia phả tính đến đời tôi là đời thứ chín - Sau tuần trà nước, anh Bân bộc bạch - Những người như tôi trên đảo Vạn Mỹ có đến 8.000 người. Người Trung Hoa gọi chúng tôi là Kinh tộc, là một trong những dân tộc thiểu số ít người nhất của đại lục rộng lớn này”.
Cùng anh Bân, tôi lượn một vòng xe máy đi các ngõ ngách của làng trên đảo. Cũng giống như bất cứ làng quê nào trên đất VN, Vạn Mỹ cũng có đình, chùa, có cây đa... Điều bất ngờ và thú vị nhất là trong giao tiếp hầu như ai cũng nói được tiếng Việt và... tiêu tiền Việt.
Dừng xe ở một quán nước ven đường, tôi thấy lạ vì có bán cả thuốc lá Vinataba. Khi trả tiền, cô chủ quán có đôi mắt hai mí lúng liếng nói bằng tiếng Việt khá sõi: “Không có tiền Trung à? Anh trả bằng tiền Việt cũng được, 11.000 một bao thuốc à!”.
Cụ Dương Lễ Thư, nguyên là trưởng thôn Vạn Mỹ, năm nay đã ngoại thất tuần, chỉ tay về phía biển: “Cháu có nhìn thấy dải xanh mờ mờ kia không?”. Tôi đáp có. Cụ bảo: “Trà Cổ đấy! Chúng ta liền nhau mà, biển liền biển, núi liền núi, sông liền sông mà, có xa cách gì đâu”.
Cụ Thư cho hay từ khi hai nước mở cửa thông thương biên giới, mấy năm trước còn khỏe năm nào cụ cũng về Đồ Sơn thăm mồ mả tổ tiên và xem chọi trâu.
Hôm tôi đến Vạn Mỹ đúng ngày mồng 1 âm lịch, thấy con cháu cụ Thư tíu tít sắm hoa quả đưa lên bàn thờ tổ tiên. Cụ Thư giải thích: “Phong tục không khác gì bên VN đâu, ở đây cũng thắp hương ngày rằm, mồng 1. Cháu còn ở đây dài ngày, đến ngày 9 tháng âm lịch này xem lễ rước thần biển giống như lễ rước thần biển ở bên Móng Cái”.
Bãi biển Vạn Mỹ |
Chung sức làm ăn
Trong lúc trò chuyện, anh Tô Minh Bân cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện về người anh trai của mình là Tô Minh Đức đã từng sang VN đánh Mỹ năm 1966 với đầy vẻ tự hào.
“Anh mình bây giờ làm cán bộ ngân hàng trên cảng Phòng Thành (Đông Hưng, Trung Quốc), làm to đấy vì trước đây là bộ đội mà, là công dân Trung Quốc mà tham gia đánh Mỹ nên anh Đức được đồng nghiệp và dân làng nể trọng”- anh Bân nói.
Cụ Dương Lễ Thư cho hay Vạn Mỹ trước đây khá vất vả, dân làng chủ yếu sống bằng nghề đánh cá và nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên cư dân Vạn Mỹ vốn là dân tộc thiểu số Kinh tộc thường được chính quyền các cấp quan tâm, giúp đỡ nên cuộc sống cũng đỡ chật vật phần nào.
Đến thời cải cách, nhà nước Trung Hoa làm con đường nhựa nối đất liền với đảo Vạn Mỹ. Vạn Mỹ đã trở thành khu du lịch hấp dẫn vì có bãi tắm trải dài tới 4km. Mỗi năm thu hút hàng vạn người từ phương Bắc xuống nghỉ hè rồi thuận đường sang VN du lịch và cả khách VN sang đây tắm biển.
Với ý thức luôn hướng về quê cha đất tổ, các gia đình ở Vạn Mỹ đều dạy con em tiếng Việt. Cụ Dương Lễ Thư nói: “Các cháu đi học thì nói tiếng Trung, về nhà xưng hô với cha mẹ đều nói tiếng Việt”. Bên cạnh đó, cánh thanh niên đi buôn bán ở cửa khẩu còn biết hát cả những bài hát VN. Dương Lễ Lợi, cháu đích tôn của cụ Dương Lễ Thư, năm nay 27 tuổi, người làm “thông ngôn” hướng dẫn khách du lịch sang VN, sau khi uống hết hai chai bia Ly Tuyền đã không ngại ngần hát tặng tôi bài hát Đêm Trường Sơn nhớ Bác bằng hai thứ tiếng Việt - Trung với giọng trầm ấm như ca sĩ Trọng Tấn. Lợi bảo: “Em biết hát là do sang VN đi hát karaoke!”. |
Chị Vũ Thu Phương, người bán tạp hóa phục vụ khách du lịch tại bãi tắm Vạn Mỹ, “khoe” trước khi vợ chồng chị mở quầy hàng này chị đã sang VN đi đến các bãi biển như Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An)... để học hỏi cách làm ăn.
“Hai năm trước sang bãi biển Đồ Sơn, thấy người ta chạy môtô nước, tôi về bàn với chồng đầu tư mua chiếc máy đó, bọn trẻ bên này thích lắm. Ngày nào cũng đông khách!”. Tại khu cổng vào của bãi tắm Vạn Mỹ, qui định của bãi cũng được ghi bằng ba thứ tiếng Anh, Trung và Việt.
Bên trong bãi tắm, có những gian hàng bày bán thức ăn, hoa quả đậm chất Việt như ngô, dứa... và những người bán hàng đều mặc trang phục như những chàng trai, cô gái nông thôn miền quê VN.
Ở Vạn Mỹ hôm nay hầu như gia đình nào cũng biết kinh doanh. Anh Bân cho hay từ khi thông thương hai nước, dân Vạn Mỹ vốn có ưu thế thạo tiếng Việt nên làng có nhiều chàng trai, cô gái đi làm “thông ngôn”.
Gia đình nào có vốn thì buôn hàng về VN. Bản thân anh trong những năm đầu mở cửa biên giới đã đưa hàng đầu máy công nông Đông Phong về tận Đồ Sơn (Hải Phòng). Hiện nay gia đình làm ăn khấm khá đã mở một quầy hàng ở bãi biển Vạn Mỹ để đón khách du lịch.
Hằng ngày anh Bân cùng con gái Tô Linh kinh doanh tại cửa hàng trên bãi biển này. “Còn vợ tôi vẫn ngược xuôi qua lại cửa khẩu buôn bán hằng ngày làm ăn với thương nhân VN”- anh Bân nói.
Trên đảo Vạn Mỹ hôm nay vẫn còn một bộ phận dân cư sinh sống bằng nghề chài lưới và những ngư cụ cũng như các con thuyền của họ được đóng theo kiểu những ngư cụ, tàu thuyền của ngư dân duyên hải vùng đông bắc VN.
Coi tôi là khách du lịch từ VN sang nên những người dân Kinh tộc Vạn Mỹ đón tiếp khá chu đáo. Anh Tô Minh Bân nói: “Khi về VN nhớ giới thiệu mọi người sang đây chơi nhé, hàng hóa Trung Quốc luôn rẻ và bãi biển Vạn Mỹ rất đẹp, người Kinh tộc Vạn Mỹ rất hiếu khách...”.
http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20050715/lang-que-viet-tren-dat-trung-hoa/88681.htmlBổ sung 2 (28/1/2015): Mục từ "Người Kinh Tam Đảo" trên bách khoa toàn thư mở (phần tiếng Việt hiện như sau.
Người Kinh Tam Đảo hay Kinh tộc Tam đảo (chữ Hán: 京族三岛, bính âm: Jīngzú Sàndăo) là tên gọi đặc trưng được dùng để chỉ cộng đồng thiểu số người Việt (còn gọi là người Kinh) di cư theo đường biển từ miền duyên hải của Việt Nam vào đầu thế kỷ 16 đến định cư trên ba hòn đảo (tam đảo) nhỏ là Vạn Vĩ (Wanwei), Vu Ðầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin) lúc đầu vốn là hoang đảo, ngày nay là ba thôn thuộc địa phận thị trấn Giang Bình, huyện cấp thị Đông Hưng, địa cấp thị Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km). Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong56 dân tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc). TạiQuảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi "Kinh tộc Tam Đảo" (chữ Hán: 京族三岛, bính âm: Jīngzú Sàndăo), có nghĩa là "Ba hòn đảo của người Kinh", hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền). Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc[1], một con số được coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống trên đất nước đông dân nhất thế giới này.
Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]
Theo tài liệu bằng chữ Nôm mà người Kinh còn lưu giữ trong một ngôi đình của họ, tổ tiên của Việt tộc tam đảo đã từ vùng Ðồ Sơn (ngày nay thuộc Hải Phòng, Việt Nam) đến vùng đất tam đảo này vào năm Hồng Thuận thứ ba (Hồng Thuận tam niên) thời nhà Lê sơ (1511) với khoảng hơn 100 người trong số 12 dòng họ khác nhau[2]. Thuở ban đầu, họ tụ cư trên ba hòn đảo nhỏ rồi sau thành ba làng tên là Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm thuộc huyện Giang Bình của thị xã Đông Hưng (Quảng Tây) ngày nay nên người ta quen gọi là Kinh tộc Tam đảo.
Dòng họ Tô[sửa | sửa mã nguồn]
Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng vàTrung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam) di cư theo đường biển vào đầu thế kỷ 16 đến định cư tại khu vực Tam Đảo (ba hòn đảo) gồm Vạn Vĩ (Wanwei), Vu Đầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin)[2] ngày nay là ba thôn thuộc địa phận thị trấn Giang Bình, huyện cấp thị Đông Hưng, địa cấp thị Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam khoảng 25 km). Địa bàn cư trú tập trung của dòng họ Tô là ở thôn Vạn Vĩ (Wanwei), vốn là một trong ba hòn đảo hoang được người Kinh đến khai phá từ những ngày đầu[3]. Nhiều người trong họ Tô đã có công nghiên cứu, bảo tồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn hóa Việt Nam[2] đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng đồng dân tộc khác của đất nước này[4]. Trải qua hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây.
- Một số cá nhân tiêu biểu
- Tô Quang Thanh, tướng dưới triều vua Quang Tự nhà Thanh, đã có công tổ chức đồng bào Kinh tộc đánh lại quân Tây xâm lấn biên cương hồithế kỷ 19, được thờ tại đình làng Vạn Vĩ.[5]
- Tô Duy Phương (Su Weifang), nguyên Phó Giám đốc Cục Công an thành phố (địa cấp thị) Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốcđồng thời là một nhà sưu tầm và nghiên cứu văn hóa người Kinh có uy tín ở Quảng Tây.[2][5][6][7]
- Tô Minh Phương, đại biểu Quốc hội dân tộc Kinh của Quốc hội Trung Quốc khóa 11 đồng thời là Bí thư chi bộ thôn Vạn Vĩ.[2][8]
- Tô Hải Trân, người gốc Vạn Vĩ, nhà nghiên cứu về nhạc cụ đàn bầu (độc huyền cầm hay duxianqin) của người Kinh tại Trung Quốc, đã biên tập và phát hành tập nhạc chuyên về đàn bầu hàng đầu tại Trung Quốc mang tên là Hải vận ma ảnh.[9]
Đời sống văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]
Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.
Phong tục tập quán[sửa | sửa mã nguồn]
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Ẩm thực[sửa | sửa mã nguồn]
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua vàốc.
Tín ngưỡng, tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiên.
Sinh hoạt văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]
Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền BắcViệt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích... Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.
Đời sống kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc [1]
^ http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2290%3Atruyn-kiu-dan-gian-hoa-mt-tc-ngi-kinh&catid=97%3Avn-hoa-dan-gian&Itemid=155&lang=vi
^ a ă â b c Làng Việt cổ 500 năm ở Trung Quốc
^ http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi-moi-truong-xa-hoi/726-nguyen-thi-phuong-cham-van-hoa-truyen-thong-cua-nguoi-kinh-o-van-vi.html
^ a ă Người chép sử Việt trên đất Trung Hoa
^ http://www.theasianeye.net/en/node/127
^ http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=360%3Ach-nom-thn-k-c-xa-ca-dan-tc-kinh&catid=65%3Ahan-nom&Itemid=153&lang=vi
^ http://vietnamese.cri.cn/561/2010/03/08/1s137675.htm
^ http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-hoc-ung-dung/vhh-nghe-thuat/1977-sunjin-dan-bau-cua-nguoi-kinh-o-trung-quoc.html
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo và liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
The Jing ethnic minority
The Jing: The People Who Sailed to China From Vietnam
"Làm nên phải nhớ tổ tông, giống nòi"
Jing: Tiếng hát & điệu múa cội nguồn từ chốn xa xôi...
Truyện Kiều dân gian hoá ở một tộc người Kinh
Đàn bầu của người Kinh ở Trung Quốc
Chữ Nôm thần kỳ cổ xưa của dân tộc Kinh
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KINH (VIỆT) Ở TRUNG QUỐC
Đất khách Vạn Vĩ
Bùi ngùi Vạn Vĩ...
Ông Tô Minh Phương, đại biểu Quốc hội dân tộc Kinh Quảng Tây Trung Quốc
Làng Việt trên đất Trung Hoa
Ba làng Việt tộc trong nội địa biên thùy Trung Quốc
Làng Việt trên đất Trung Hoa
VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KINH Ở VẠN VĨ TRONG QUÁ TRÌNH GIAO LƯU BIẾN ĐỔI (NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM)
500 năm trên mảnh đất Trung Hoa vẫn nói tiếng Việt
Làng quê Việt trên đất Trung Hoa
Dân tộc Kinh ở Giang Bình (Đông Hưng, Quảng Tây, Trung Quốc) - Nguyễn Thị Phương Châm
Video về người Kinh Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Jingzu Folk Dance Traditional Minority Jing Zu People Ethnic
Jing Song - Qua Cau Gio Bay 过桥风吹
Qua Cau Gio Bay
Jings Song
[2]
[3]
[4]
京族哈妹组合 - Lullaby 摇篮曲
Kinh tộc tại Quảng Tây, phần 1
Người Tày ở Trung Quốc
Bổ sung 1 (28/1/2015): Một bài đã xuất hiện từ năm 2009, trên tờ An Ninh Hải Phòng.
Làng Việt trên đất Trung Hoa
Thứ Năm, 02/04/2009, 09:50 [GMT+7]
Bãi biển Kim Than, thôn Vạn Vĩ |
Trên đất nước Trung Hoa rộng lớn, ở thôn Vạn Vĩ, thị trấn Giang Bình, TP Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây từ 500 năm trước đã có một bộ phận cư dân người Việt sinh sống...
Trải qua hàng trăm năm, đến nay đã được công nhận là 1 trong 56 dân tộc của Trung Hoa nhưng những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng vẫn hướng về nguồn cội.
LÀNG VIỆT CỔ 500 NĂM
Theo lời chỉ dẫn của một người quen ở Móng Cái, sau khi làm thủ tục xuất cảnh qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái, chúng tôi đến trước cửa Bách Hội – trung tâm mua sắm của TP Đông Hưng để đón xe buýt đi Vạn Vĩ. Thế nhưng, với vốn tiếng Trung chỉ có... 2 từ “nỉ hảo” học được nhờ xem phim Trung Quốc nên cứ loay hoay mãi, cuối cùng chúng tôi may mắn gặp được một phụ nữ là người bản địa thường hay qua lại Việt Nam buôn bán biết tiếng Việt vẫy giúp lên chiếc xe buýt đông nghẹt người đi Vạn Vĩ với giá vé 4 NDT...
Bỏ lại TP Đông Hưng phía sau, con đường về Vạn Vĩ được trải bê tông phẳng lỳ, hai bên đường là những làng mạc với đồng ruộng không khác lắm so với khung cảnh Việt Nam. Sau 40 phút đồng hồ qua quãng đường chừng 35km, chiếc xe buýt đến bến cuối cùng chính là thôn Vạn Vĩ. Đang lo lắng vì cả quãng đường dài đến đây đã phải “nói chuyện”... mỏi tay, giờ chưa biết xoay sở thế nào thì bỗng một phụ nữ bán hàng bên đường hỏi với ra bằng tiếng Việt: “Ở Việt Nam mới sang phải không?”. Mừng ra mặt, chúng tôi lập tức lại gần, hỏi ra thì được biết đó là chị Ngô Thị Hà, người Kim Động, tỉnh Hưng Yên sang đây lấy chồng từ hơn chục năm trước. Gặp người đồng hương, khi biết chúng tôi muốn tìm hiểu về đời sống người Việt nơi đây, chị Hà rất vui vẻ và nhiệt tình giúp đỡ.
Vạn Vĩ nằm sát biển, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tất cả du khách là tấm panô cỡ lớn với hình ảnh cô gái mặc... áo dài Việt Nam. Hai bên đường vào thôn là những dãy nhà 2, 3 tầng và ở giữa thôn là cái chợ bán đủ thứ nhu yếu phẩm của đời sống có nhiều điểm rất giống xứ ta...
Theo lời chị Hà, chúng tôi tìm đến gặp ông Cung Chấn Hưng, người của một trong những dòng họ sống lâu năm nhất ở Vạn Vĩ. Ông Hưng cũng tỏ ra rất xúc động khi biết chúng tôi là người Việt. Sau một hồi trò chuyện, ông Hưng đưa chúng tôi đến thăm ngôi đình nằm giữa trung tâm đảo Vạn Vĩ có tên là Há Đình. Nơi đây được coi là tụ điểm sinh hoạt văn hóa của người Kinh tộc trên 3 hòn đảo Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm. Trước cổng tam quan là tấm biển giới thiệu Há Đình được viết bằng hai thứ tiếng Trung, Việt. Theo giới thiệu tóm tắt thì từ "Há" dịch sang tiếng Việt là "ca hát". Há đình có nghĩa là hát đình, một lễ hội văn hoá truyền thống thường thấy của dân tộc Kinh. Lễ hội được bắt đầu từ mùng 9-6 đến 15-6 âm lịch, người Kinh tộc dù ở bất cứ xa gần đều trở về Há Đình để đoàn viên chung vui ngày lễ đầy màu sắc văn hóa của dân tộc.
Ông Hưng cho biết, theo tài liệu bằng chữ Nôm còn lưu giữ trong Há Đình cũng như gia phả của nhiều dòng họ ghi lại, từ 500 năm trước đây, tức vào năm Hồng Thuận cuối đời Hậu Lê có khoảng 100 người Việt của 12 dòng họ gồm: Tô, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Vũ, Bùi, Cao, Ngô, La, Cung, Khổng và Lương có gốc gác từ Đồ Sơn, Hải Phòng đã đến Tam Đảo khai hoang lập nghiệp các thôn Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm.
Người Kinh sống tại Vạn Vĩ
Đến nay, các dòng họ này đã có đời thứ 11, 12. Nguồn gốc của tên gọi Kinh tộc Tam đảo bắt nguồn từ 3 hòn đảo mà trước đây cha ông đến dựng nghiệp (nay do phù sa bồi đắp đã thành đất liền) là Vạn Vĩ, Mu Đầu và Sơn Tâm, sau đó phát triển thêm một số thôn khác. Ngày nay, người dân Tam Đảo vẫn truyền khẩu câu hát của cha ông xưa “Cha ông lưu lạc Phúc Yên chốn này” (Phúc Yên là tên cũ của thị trấn Giang Bình hay còn gọi là An Lang).
Trải qua thời gian hàng trăm năm trên đất khách nhưng người dân Việt vẫn gìn giữ đủ những tập tục truyền thống của cha ông để lại, như từ ngày 20 đến 30 tháng Chạp, con cháu sẽ đi tảo mộ. Để lấy may mắn và không sát sinh trong ngày đầu năm, trong ngày 30 tết, người dân sẽ giết lợn, gà, vịt đủ dùng cho cả ngày mùng 1 tết. Cũng như cha ông, người Việt tại Tam Đảo vẫn duy trì ngày cúng hai bữa cơm trong mấy ngày tết... Một điều thật đáng trân trọng là trong những gia đình hoặc những người Việt ở Vạn Vĩ khi giao tiếp với nhau hoàn toàn bằng tiếng Việt. Nhiều người Hán khi lấy người Việt tại đây chỉ thời gian ngắn cũng nói được tiếng Việt thành thạo.
Trong thời gian ở Vạn Vĩ chúng tôi còn được gặp ông Tô Duy Phương, người đã từng sang Việt Nam làm quân tình nguyện thời chống Mĩ và sau đó có thời gian ở lại làm chuyên gia giúp Việt Nam. Trong căn phòng nhỏ với đầy ắp kỷ vật, ảnh từ thời ông còn chiến đấu và công tác ở Việt Nam, ông Phương xúc động tâm sự: Với tấm lòng của người con đất Việt luôn hướng về nguồn cội, từ ngày nghỉ hưu, ông dành thời toàn bộ thời gian để thu thập tài liệu, gia phả, sử sách để ghi lại và in thành sách nói về lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc Kinh tại Tam đảo bằng chữ Nôm và tiếng Việt ngày nay. Cùng với đó, ông Phương còn mở nhiều lớp dạy học tiếng Nôm dân trong thôn...
LÀM GIÀU TRÊN ĐẤT KHÁCH
Trên đất Vạn Vĩ hiện có khoảng hơn 1 vạn người Kinh đang sinh sống. Từ bao đời nay người dân chủ yếu làm nghề kéo lưới, thả lưới. Tuy nhiên cho đến mấy năm trở lại đây, ở Vạn Vĩ đã có nhiều gia đình giàu lên, trong thôn đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân, hàng chục xe ô tô, hàng trăm tàu thuyền và gần mười khách sạn. Bãi biển Kim Than thuộc thôn Vạn Vĩ có nghĩa là bãi cát vàng ngày nay đã được người Kinh tại Tam Đảo biến thành nguồn lợi du lịch, bên cạnh khai thác, nuôi trồng hải sản. Nhiều ông chủ ở Vạn Vĩ giàu lên nhờ nuôi tôm, đánh bắt sứa, đóng tàu, mở nhà hàng và làm khách sạn. Được sự giúp đỡ của chính quyền, Vạn Vĩ và các thôn còn lại có người Việt sinh sống trở thành điểm du lịch văn hóa. Ông Tô Xuân Pháp, chủ một xưởng đóng bè và được xem như một “đại gia” ở làng Vạn Vĩ tiếp chúng tôi bằng những câu hát quan họ trong bài “người ơi, người ở đừng về”.
Ông Pháp vui vẻ tâm sự: “Đời sống của bà con người Kinh ở Vạn Vĩ ngày nay sung túc lắm rồi. Trước chỉ có người bên ngoài lấy vợ ở Vạn Vĩ thì nay người Kinh cũng đã lấy được vợ ngoài thôn”. Ông Pháp cũng cho hay, mỗi tháng xưởng của ông đóng 2 - 3 chiếc bè cung cấp cho người dân trong vùng với giá 30 triệu đồng/ chiếc. Xưởng đóng bè của ông Pháp không chỉ giúp ổn định kinh tế gia đình ông mà còn tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều người dân trong vùng...
0 Response to "Đến khoảng những năm Tự Đức 20 (thập niên 1870) thì vùng người Kinh hiện ở Quảng Tây, vẫn thuộc đất Việt Nam"
Đăng nhận xét
Vui lòng không Spam. Thanks các bạn