Có một đợt, lúc bác Nguyễn Hoàng Linh làm chủ bút tờ Doanh nghiệp Việt Nam (trụ sở lúc đó trên Nguyễn Thái Học), thì mình thấy báo của bác chạy nhiều bài bênh Tăng Minh Phụng. Hồi đó, nhờ có các đàn anh, thi thoảng mình đăng bài trên tờ này.
Mình không biết nhiều về làng báo Đại Việt. Nên chỉ biết Nguyễn Hoàng Linh thời Doanh nghiệp Việt Nam thôi. Bây giờ, học trò của bác ngày ấy đã có một số người là chủ bút của một vài tờ rồi.
Sau này, nghe bác bị bắt và giam tới cả mấy năm. Chỉ nghe thông tin phong thanh thế thôi. Từ đó, không nghe thêm được gì nữa. Vừa lướt thấy một bài mới của bác.
Bài dưới đây, là tâm sự của bác NHL, mình lướt thấy bên nhà bác Cạo, và sang lấy từ bên nhà bác Ngô Minh.
---
Nguyễn Hoàng Linh: Tôi bị bắt giam như thế nào?
Ảnh chân dung Hoàng Linh chụp năm 2008, 10 năm sau ngày được trả tự do.
Nguyễn Hoàng Linh
QTXM- Nguyễn Hoàng Linh là một cây bút báo chí mẫn cảm, sắc sảo và cương trực. Anh là phó TBT báo Thương Mại khi tôi là phóng viên thường trú của báo này tại miền Trung. Sau đó anh chuyển sang làm TBT báo Doanh Nghiệp một thời gian thì bị bắt vì đã viết và cho in bài về 2 con tàu cao tốc “dổm” của ngành Hải Quan. Vụ án Hoàng Linh là chuyện của bộ máy cường quyền tham nhũng ra tay trừng phạt người chống tham nhũng.Nhưng sau khi bị bắt uy tín và nhân cách Hoàng Linh trong giới báo chi càng tăng lên.Mời bạn đọc cùng Hoàng Linh hồi tưởng lại những ngày anh bị bắt. NGÔ MINH
Lược qua lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, có lẽ tôi là Tổng biên tập duy nhất bị bắt giam. Cũng đã có nhiều nhà báo bị bắt giam và kết án tù, nhưng với Tổng biên tập một tờ báo của Trung ương, một cán bộ của Nhà nước có hàm Vụ trưởng, một Đảng ủy viên cơ quan cấp Bộ, quả là hy hữu, là việc cực chẳng đã họ mới phải làm.
Sau này ngẫm lại, tôi mới thấy rằng trừ một thứ danh có thể coi là bền vững với cuộc sống như màu xanh của cây lá, đó là nhà báo, còn tất cả các thứ danh khác như Tổng biên tập, Đảng ủy viên, Vụ trưởng… kia đều là hão huyền. Người ta có thể dán những thứ đó vào ngực mình thì người ta cũng có thể bóc được nó đi bất cứ lúc nào. Đôi lúc, những thứ danh hão ấy trở thành những bức tường giam hãm chính số phận của mình mà không hay biết. Còn đã là nhà báo chuyên nghiệp, những tố chất nghề nghiệp đã thành máu thịt rồi thì không thể có ai tước đoạt nổi.
Thực tình, tôi không hề muốn làm Tổng biên tập tí nào. Hồi ấy, năm 1992, Hội đồng Trung ương các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời bởi sự hợp nhất giữa Ban Quản lý HTXMB trung ương và Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp. Bác Hoàng Minh Thắng đang làm Bộ trưởng Bộ Thương mại được điều về làm Chủ tịch Hội đồng. Tôi xưng hô với người anh hùng trận Núi Thành vang lừng xưa kia ấy bằng bác và xưng em như đối với một người anh cả, xuất phát từ lòng quý trọng và kính phục. Nguyên là Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, ngoài những tài năng thiên bẩm của người lãnh đạo, bác là người chân tình, nhân hậu, luôn luôn gần gũi với anh em cấp dưới và đặc biệt, rất quý mến các nhà văn, nhà báo. Khi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, bác đã ký quyết định đề bạt tôi làm Phó tổng biên tập báo Thương Mại vào tháng 12/1990. Khi đó tôi 38 tuổi.
Cuối năm 1992, bác Thắng cho một cán bộ tổ chức sang báo Thương Mại gặp tôi, đặt vấn đề mời tôi sang làm Tổng biên tập tờ báo Sáng Tạo, là tuần báo của Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp cũ. Tôi vốn biết mình khó có thể gánh được chức Tổng biên tập một tờ báo vì tính cách đầy góc cạnh của mình. Tôi có cái tật nhìn sự kiện gì cũng phải nhìn đa chiều, lại là người hiếu động, không ngồi yên một chỗ được lâu bao giờ, nay phải đóng vai một ông Tổng biên tập đạo mạo, đi đứng nói năng nghiêm chỉnh, phải vặn vẹo tư duy để phù hợp với những quy định vốn khắc nghiệt của hệ thống quản lý báo chí cấp trên thì quả thật là như trời đày. Chính vì thế, tôi đã từ chối lời mời ấy.
Không hiểu sao, ít ngày sau, người cán bộ tổ chức ấy lại sang nói ý kiến của bác Thắng muốn thuyết phục tôi thay đổi quyết định và sang giúp Hội đồng trung ương các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dựng lại tờ Sáng Tạo, vì hiện nay đang nợ nần chồng chất và bị đình bản, Tổng biên tập cũ đã chuyển công tác nơi khác. Tôi vẫn quyết định từ chối vì tin rằng chỉ có mình mới hiểu chính mình. Thế nhưng dường như do trời định, chỉ vì một câu nói của bác Thắng mà tôi đã phải thay đổi 180 độ về quyết định của mình. Đó là cuộc gặp gỡ khi bác Thắng cho người đón tôi sang gặp bác tại văn phòng của Hội đồng ở số 6 đường Láng Hạ (nay là khách sạn Fortuna). Bác vẫn xưng hô thân mật “mi, tau” như hồi còn làm Bộ trưởng Thương mại. Sau khi pha trà, rót nước, bác nói nhiều về ý tưởng của bác mong muốn xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh có sứ mạng chấn hưng nền kinh tế đất nước, mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bác bảo:
– Hoàng Linh à, tau rất cần có một công cụ tuyên truyền cho các đối tượng này. Nhưng tờ báo Sáng Tạo hiện nay không thể xuất bản được vì thiếu người đứng đầu. Mi về đây với tau dựng nó dậy.
Tôi lại phải giải thích với bác rằng năng lực mình có hạn, vừa mới lên chức Phó tổng biên tập báo Thương Mại hơn một năm, kinh nghiệm lãnh đạo còn quá thiếu. Phần nữa, cái tính cách “hay cãi cấp trên” e rằng không hợp với chức Tổng biên tập. Bác lại bảo:
– Tau thấy mi làm được. Về đây đi. Tiền thì tau không có nhưng mi cần gì thì tau ký.
Trời ạ, vực dậy một tờ báo mà không có tiền thì vực bằng kiểu gì đây? Tôi biết bác đang nói rất thật lòng nhưng quả là không thể nhận lời được. Thấy tôi từ chối, bác nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:
– Này tau hỏi thật mi, hồi tau còn làm bộ trưởng, anh em mình vui với nhau vậy. Bây chừ tau đang khó khăn, cần đến mi, sao mi lại từ chối?
Một câu hỏi vừa chân tình, vừa có ý trách móc như thức tỉnh trong tôi một giá trình nhân văn cần có ở một con người. Nếu coi chức Tổng biên tập là cái được, là một bước thăng tiến trong cuộc đời thì quả là tôi không cần. Nhưng nếu đây là một thử thách, là việc nghĩa với một người mà tôi vô cùng kính trọng thì quả là tôi không có đủ can đảm để từ chối. Ngẩn tò te mất đến nửa phút, tôi nhận lời làm Tổng biên tập với hai điều kiện: Một là đổi tên tờ Sáng Tạo thành tờ Doanh Nghiệp, hai là ra quyết định thành lập mới Tòa soạn báo Doanh Nghiệp, mọi khoản nợ nần hơn 300 triệu đồng và các hậu quả khác để lại của tờ báo do Tòa soạn cũ chịu trách nhiệm.
Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, bác Hoàng Minh Thắng quyết định cấp cho tôi 40 triệu đồng để dựng nghiệp. Báo Doanh Nghiệp đã ra đời trong hoàn cảnh như thế. Với tư tưởng chủ đạo dốc lòng xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh có sứ mạng chấn hưng nền kinh tế đất nước, Hội đồng cho ra đời 3 tổ chức mới theo thế chân kiềng: Ngân hàng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lo vốn liếng; Trung tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lo tư vấn và đào tạo; báo Doanh Nghiệp lo quảng bá và cổ vũ.
Với tiêu chí cao cả ấy, với đối tượng phục vụ rõ như ban ngày và đầy tiềm năng ấy, báo Doanh Nghiệp lớn nhanh như gió thổi với câu slogan: “Báo Doanh Nghiệp-Người bạn của những ai có chí làm giàu”. Từ chỗ ra mỗi tuần một kỳ báo 12 trang nhanh chóng lên 16 rồi 20 rồi lên 24 trang. Chẳng bao lâu sau ra thêm tờ Doanh Nghiệp Chủ nhật, rồi ra tờ Doanh nghiệp cuối tháng. Số phát hành đã lên đến con số 14.000 bản/kỳ, một ước mơ của nhiều tờ báo ngành hồi đó. Các doanh nghiệp trong cả nước đã một thời từng coi đây là người bạn đồng hành trong sự nghiệp làm giàu của mình.
Một trong những nội dung được bạn đọc ưa thích nhất là các phóng sự điều tra chống tiêu cực. Sinh nghề tử nghiệp. Tôi bị bắt giam cũng vì chuyên mục này.Câu chuyện không ngờ bắt đầu từ một sự kiện xảy ra ở một nơi xa tít mù khơi, đó là việc Liên Xô tan rã. Tôi được một số bạn bè là nhà khoa học nghiên cứu sinh ở Ucraina cho biết do muốn nhanh chóng tư nhân hóa nền kinh tế, các Chính phủ mới trong SNG đã chủ trương đẩy mạnh việc bán tài sản nhà nước, từ mỏ dầu, tàu vận tải biển, liên hợp xí nghiệp công nghiệp khổng lồ, các thiết bị quân sự… đến tòa soạn báo chí, trụ sở và phương tiện, máy móc đài phát thanh, đài truyển hình…
Một chiếc tàu chở dầu hay một chiếc tàu đánh cá đại dương giá không dưới 10 triệu USD chỉ bán vài trăm ngàn Mỹ kim; một nhà máy luyện thép vô giá, chỉ bán vài triệu USD. Hàng chục tàu tuần tiễu cũ thuộc hạm đội Hắc Hải đã được thanh lý với giá rẻ chỉ trên dưới 600 ngàn USD một chiếc. Chớp thời cơ ngàn năm có một ấy, một số anh chị em Việt Nam sang làm luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ đã trở nên giàu có nhanh khủng khiếp bởi thiết lập được đường dây mua bán các thiết bị quân sự cũ, trong đó có cả máy bay, tàu chiến. Một đường dây tựa như mafia khai thác cơ hội này đang được hình thành… Biết thì cũng để đấy thôi chứ không một nhà báo Việt Nam nào lại dại dột dính vào những lĩnh vực thuộc bí mật quân sự, vừa thiếu thông tin, lại vừa nguy hiểm. Tôi cũng thuộc vào loại đó.
Nhưng rồi cái gì đã là định mệnh thì nó ắt phải đến. Hồi giữa năm 1996, Tòa soạn báo Doanh Nghiệp đã nhận được những thông tin về vụ nhập tàu cao tốc của Tổng cục Hải quan rằng có một đường dây “làm ăn” xuyên suốt từ bộ phận chuyên lo vật tư của ngành Hải quan sang một đơn vị của quốc phòng, sang Nga rồi tới Ucraina. Thông qua việc thanh lý tàu tuần tiễu cao tốc của hạm đội Hắc Hải (Liên Xô cũ), cùng với việc Hải quan Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư mua tàu cao tốc chống buôn lậu, các mắt xích đã được móc nối với nhau. Tàu cũ được tân trang thành tàu mới, các ụ súng chiến đấu bị cắt bỏ và được bán mua với giá như tàu mới.
Đầu năm 1997, Tòa soạn lại nhận được thông tin: cả 4 con tàu cao tốc nhập từ Ucraina (hai chiếc nhập năm 1994, hai chiếc nhập năm 1996) đều chưa đăng kiểm. Theo pháp luật, tàu chưa đăng kiểm là hoạt động trái phép. Một câu hỏi đặt ra trong Ban biên tập: Tại sao 4 con tàu kia không chịu đăng kiểm? Liệu có lý do mờ ám nào không? Nếu đúng như vậy, một khoản tiền lớn của ngân sách quốc gia đang bị lợi dụng? Đến cuối tháng 4/1997, một nguồn tin cho hay: hiện nay, 2 con tàu cao tốc đang sửa chữa tại xí nghiệp X46 của quân đội tại Hải Phòng và một con tàu cao tốc đã cháy máy, nằm tại cảng Đà Nẵng.
Khi đó, các mắt xích thông tin được nối lại: một đường dây làm ăn mờ ám – tàu không đăng kiểm – hỏng hóc sửa chữa hàng loạt. Tôi liền đưa vấn đề này ra bàn trong lãnh đạo Tòa soạn gồm anh Phạm Lê Tấn Phong, Phó tổng biên tập, anh Nguyễn Quốc Thái, Tổng thư ký Tòa soạn, về việc quyết định mở một cuộc điều tra về 4 con tàu cao tốc này. Trong nỗ lực chống tham nhũng, tiêu cực, giữa chúng tôi bao giờ cũng có sự nhất trí cao nhưng riêng đối với việc này, Ban biên tập đã băn khoăn, cân nhắc và thảo luận rất kỹ. Liệu những con tàu cao tốc này có thuộc diện bí mật quốc gia không? Những phóng viên nào có thể đảm nhận được một cuộc điều tra quá khó khăn này? Quy trình duyệt bài phải phối hợp như thế nào để tránh những sai sót đáng tiếc?… Sau một hồi phân tích, chúng tôi xác định rằng ngành Hải quan là cơ quan dân sự và tự tin rằng “ hành vi tham nhũng” không bao giờ thuộc về bí mật quốc gia. Chúng tôi cũng nhất trí mời một cộng tác viên rất thân thiết với Tòa soạn là nhà báo “lão làng” Phạm Thanh, nguyên Trưởng Ban Công nghiệp, Bí thư Đảng ủy báo Nhân Dân vừa mới nghỉ hưu tham gia. Trong Tòa soạn, tôi sẽ trực tiếp chỉ đạo “chiến dịch” này và phân công nhà báo trẻ Nguyễn Anh Dũng, phóng viên thường trú vùng Duyên hải miền Bắc cùng tham gia. Thật may, bác Phạm Thanh nhận lời ngay và với kinh nghiệm lâu năm trong nghề báo, bác đã viết nhiều bài sắc sảo về vụ tầu cao tốc này. Nhanh nhẹn, tháo vát, thạo về quay phim, chụp ảnh, phóng viên Nguyễn Anh Dũng cũng đã trổ hết tài năng và đem về cho Tòa soạn những bức ảnh và băng ghi âm, ghi hình quý giá.
Trong quá trình hỏi cung, các điều tra viên của cơ quan an ninh luôn luôn khẳng định và thể hiện ngay trên Bản kết luận điều tra rằng tôi đã không thảo luận trong Ban biên tập, tự ý cho đăng những bài báo về những con tầu cao tốc. Tôi thì chắc chắn họ đã nhầm vì trong Lãnh đạo Tòa soạn, chúng tôi phân công người viết bài không bao giờ là người duyệt bài để tránh những sai sót của tư duy chủ quan. Tất cả những bài viết về vụ tàu cao tốc đều phải qua anh Quốc Thái trước, sau đó anh Tấn Phong sẽ là người duyệt cuối cùng. Nhưng thôi, không sao. Tổng biên tập bao giờ cũng phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tờ báo. Cái nhầm lẫn ấy cũng không quan hệ gì nhiều đến bản chất vụ việc.Nhà báo Phạm Thanh quả là một phóng viên điều tra tài ba. Chỉ trong vòng hơn một tuần đi điều tra cùng với Nguyễn Anh Dũng từ Hà Nội đi Quảng Ninh, sang Hải Phòng rồi vào Đà Nẵng, ông đã đem về cho Tòa soạn nhiều tài liệu quý giá. Ông phát nhiện ra nhiều vấn đề mờ ám không chỉ trong việc mua 4 con tàu của Ucraina mà còn cả trong việc đặt mua 4 con tàu của Úc.Với 4 con tàu mua của Ucraina, việc sau hơn 2 năm cả 4 con tàu không đăng kiểm được là chính xác vì thiếu đến 10 loại hồ sơ kỹ thuật. Trong 4 con tàu thì 3 con phải vào xưởng sửa chữa, có con nằm đã hơn nửa năm không có phụ tùng thay thế. Tháng 7/1995, Tổng cục Hải quan có công văn xin Thủ tướng Chính phủ cho phép mua tàu cao tốc nhưng tàu đã được nhập về từ tháng 1/1994, có thể coi là nhập lậu. Giấy phép nhập khẩu tàu cho phép nhập của Nga nhưng những con tàu lại được mua của Ucraina. Số tiền 4,06 triệu USD xuất ra để mua tàu nhưng Vụ tài chính đối ngoại của Bộ Tài chính không hay biết và được cấp bằng tiền Việt. Việc mua tàu không thực hiện qua đấu thầu theo quy định của Nhà nước… Cùng với đó là những tấm ảnh, băng ghi hình về thực trạng con tàu thật thảm hại. Chỉ mới hơn hai năm sử dụng mà máy móc của tàu sét gỉ còn tồi tệ hơn cả máy móc của ô tô, xe máy từ bãi rác của Nhật nhập về. Ngoài ra, trong băng ghi âm còn ghi lại lời nói của một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật của xưởng sửa chữa 2 chiếc tàu cao tốc ở Hải Phòng đánh giá rằng những con tàu này có tuổi đời trên dưới 20 năm.
Về 4 con tàu nhập của Úc. Trong khi với 4 con tàu nhập về từ Ucraina thì Tổng cục Hải quan mà lúc đó, ông Phan Văn Dĩnh là Tổng cục trưởng, luôn luôn khẳng định đấy là những thiết bị kỹ thuật phức tạp, thuộc về bí mật quốc gia nên phải nhập qua các đơn vị quân đội, nhưng khi nhập 4 con tàu từ Úc, ông Phan Văn Dĩnh lại giao cho công ty cổ phần Hải Phát, nguyên là một xí nghiệp đời sống của Hải quan TP.Hồ Chí Minh chuyên may gia công. Một đơn vị kinh tế được tổ chức ra để lo cải thiện đời sống, sau 8 tháng chuyển thành công ty kinh doanh hầu như không hoạt động gì lại được giao tới 5,6 triệu USD mua một loại thiết bị hiện đại, đặc chủng như tàu tuần tiễu cao tốc thì đó quả là một sự kiện hấp dẫn với các nhà báo. Đặc biệt hơn, trong các cổ đông của công ty Hải Phát có gương mặt của “đại gia” Phạm Huy Phước. Ai cũng biết rằng trong những năm 90 của thế kỷ trước, cả nước chấn động với vụ án của “đại gia” Phạm Huy Phước, Giám đốc công ty Tamexco. “Đại gia” này đã vay hàng trăm tỷ đồng rồi nướng vào các sòng bài, vào việc bao gái và dùng nó để hối lộ các quan chức. Khi vụ án bị phanh phui, Phạm Huy Phước đã bị tử hình, kết thúc cuộc đời một “đại gia” đã gây thất thoát của Nhà nước hàng trăm tỷ đồng. Nay có gương mặt “đen” này liên quan đến việc mua tàu cao tốc, sự mờ ám lại thêm hiện rõ.
Quả thật lúc đó, những phát hiện của nhà báo Phạm Thanh khiến tôi cực kỳ hạnh phúc vì đã tìm ra manh mối của những vụ làm ăn khuất tất xung quanh những con tàu cao tốc này với hy vọng rằng, Đảng và Nhà nước sẽ làm sáng tỏ vụ việc và có định ra những quy chế cần thiết để bịt những lỗ hổng trong hệ thống quản lý tài chính quốc gia. Tuy nhiên, cẩn thận hơn, tôi cùng nhà báo Phạm Thanh và Nguyễn Anh Dũng cùng về nhà máy đóng tàu Bạch Đằng để hỏi thêm về giá đóng những con tàu tương tự ở Việt Nam và đi thăm những con tàu đã sử dụng trên dưới 2 năm. Thật ngạc nhiên là các anh lãnh đạo của nhà máy cho biết, nếu đóng con tàu như thế, máy nhập ở những nước có công nghiệp đóng tàu nổi tiếng thì giá chỉ chưa đến một nửa so với con tàu mà ngành Hải quan đã mua. Còn khi xuống hầm tàu của những con tàu mới dùng được 2-3 năm thì tôi càng khẳng định rằng tàu của ngành hải quan nhập về là tàu cũ, tàu “dởm” vì với những con tàu được tham quan có tuổi thọ 2-3 năm, máy móc và thiết bị của nó gần như mới tinh. Sau chuyến đi ấy, tôi gọi điện thông tin cho anh Tấn Phong và anh Quốc Thái đang trực tại Sài Gòn và chúng tôi quyết định bắt đầu đăng báo.
Sau đây là cái tin ngắn đầu tiên đăng trên trang nhất Tuần báo Doanh Nghiệp số 14-20/5/1997 với tựa đề “Ngành Hải quan nhập 4 con tàu cao tốc “dởm”: “Theo nguồn tin từ cơ quan đăng kiểm Quảng Ninh, đến nay, cả 4 con tàu cao tốc chống buôn lậu của ngành Hải quan nhập từ năm 1994 đến năm 1996 đều chưa đăng kiểm vì lý do không có tài liệu kỹ thuật. Các nguồn tin khác cho hay, các con tàu này, máy được sản xuất năm 1969, hạ thủy năm 1972 tại Liên Xô cũ đã được mua với “giấy khai sinh” năm 1992. Giá mua 4 con tàu trên 50 tỷ đồng, song theo đánh giá của các chuyên gia đóng tàu ở Hải Phòng thì mỗi con tàu tương tự được đóng mới, với chất lượng quốc tế kiểm định chỉ 4-5 tỷ đồng/chiếc. Hiện nay, 3 trong 4 con tàu đang nằm tại xưởng sửa chữa (1 chiếc tại Đà Nẵng, 2 chiếc tại Hải Phòng). Như vậy, qua việc mua 4 con tàu cao tốc “dởm” này, ngành Hải quan đã làm thất thoát trên dưới 30 tỷ đồng. Dư luận cho rằng một phần trong số tiền này đã rơi vào túi cá nhân”.
Sau khi báo phát hành, nhiều bạn đọc trong ngành hải quan đã gọi điện hoan nghênh và cung cấp thêm cho Tòa soạn những sự kiện và địa chỉ để điều tra tiếp. Đặc biệt, có những tài liệu rất nội bộ của ngành Hải quan liên quan đến vụ việc cũng được gửi tới. Nhóm nhà báo chúng tôi lại tiếp tục lao vào vòng nguy hiểm mặc dù biết rằng ngành Hải quan đã có những báo cáo bôi nhọ động cơ của chúng tôi với các cơ quan chức năng, thậm chí cả với Ban Văn hóa tư tưởng, Thủ tướng Chính phủ. Họ vu rằng chúng tôi đã ăn tiền của ai đó để phá hoại đoàn kết nội bộ, rồi kêu ầm lên rằng chúng tôi vu khống họ. Có những lời nhắn nhủ đầy quyền lực rằng Tòa soạn phải ngừng công việc điều tra ngay, nếu không sẽ phải trả giá. Tuy vậy, các bài điều tra và bình luận về những con tầu cao tốc tiếp tục được đăng với những bằng cứ xác đáng và tính thuyết phục cao. Khoảng sau gần 10 bài được đăng thì tôi bị bắt.
Đó là vào buổi sáng một ngày đẹp trời 8/10/1997. Tôi đang ở Thư viện Quốc gia lục tìm một số tư liệu thì nhận được một cú điện thoại. Người gọi xưng là ở cơ quan an ninh điều tra, rất cần gặp tôi có việc quan trọng. Tôi nghĩ ngay đến việc chẳng lành nhưng trong thâm tâm đã sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro nên cũng không lo lắng lắm. Một khi đã động đến “niêu cơm” của những kẻ đầy ắp quyền lực thì họ đâu có dễ dàng để cho mình yên. Khi về tới phòng làm việc thì thấy 4 sĩ quan an ninh, sắc phục chỉnh tề đã đợi sẵn. Họ bảo với tôi rằng có việc cần nhưng về nhà mới bàn. Lúc này tôi linh tính rằng mình sẽ bị bắt giam. Đúng như dự đoán, về đến nhà tôi ở Phố Vọng, người sĩ quan điều tra có quân hàm trung tá tên là Nguyễn Mạnh đã đọc lệnh bắt giam và lệnh khám nhà đối với tôi với 2 tội danh: Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước và tội lợi dụng tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội. Tôi buột một tiếng thở dài, vì số phận mình thì ít mà vì buồn cho nền đạo lý của đất nước thì nhiều. Rõ ràng mình đang làm một việc thiện thì lại bị đánh giá là kẻ có tội.
Sau một hồi lục soát từng chi tiết trong ngôi nhà cùng một gói tài liệu được niêm phong, họ đưa tôi ra chiếc xe 4 chỗ sang trọng màu cánh chả với thái độ ôn hòa và chuẩn mực. Tôi thầm nghĩ những con người này cũng như mình thôi, nghề nào nghiệp nấy. Mình thực thi công vụ thì họ cũng thực thi công vụ. Vào tù mình sẽ có thêm một mảng vốn sống nữa mà không phải nhà báo nào cũng có được cơ hội ấy. Trông gương mặt của những viên sĩ quan an ninh, tôi đoán là những người có học và chắc chắn ẩn sau những gương mặt ấy là một trái tim, chỉ không đoán được độ lạnh của nó mà thôi. Cả xe im lặng. Thấy vậy, tôi lên tiếng trước:
– Các anh thấy tôi đã hoàn thành nghĩa vụ công dân chưa?
Viên trung tá đáp:
– Cảm ơn anh đã cộng tác với chúng tôi.
– Tôi tin rằng từ trước đến giờ, các anh không hề có thù hằn đối với tôi, đúng không?
Cả 3 viên sĩ quan, trừ người lái xe, nhìn tôi ngạc nhiên và không trả lời. Tôi nói tiếp:
– Và các anh cũng nên tin rằng đến giờ, tôi cũng không có thù hằn gì với các anh. Các anh làm công vụ, tôi đã tôn trọng. Tôi hy vọng rằng các anh cũng tôn trọng nghề nghiệp của chúng tôi.Cả xe vẫn im lặng. Cuộc độc thoại diễn tiếp:
– Tôi cho rằng do thông tin khác nhau, quan điểm nhìn nhận vụ việc khác nhau nên chúng ta mới được gặp nhau ở đây và biết có nhau trên thế gian này. Số phận đã như vậy, với tư cách con người với con người, tôi còn một ít tiền trong túi, vào tù chắc không có cơ hội, tôi mời các anh ta ghé vào đâu ta uống cùng với nhau một cốc bia.
Cả xe vẫn im lặng. Chiếc xe vẫn vun vút lao đi trên đường về phía Văn Điển. Tôi nói tiếp:
– Các anh đừng ngại. Nếu tôi có tội, đề nghị các anh cứ xử sòng phẳng. Nếu không sòng phẳng, chính tôi sẽ coi thường các anh.
Bỗng có một tiếng của ai đó:
– Thủ trưởng à, hay mình đi ăn một bữa thịt chó để giải đen đi.
Ngần ngừ một lúc, trung tá Mạnh tặc lưỡi:
– Ừ thì đi, đằng nào cũng đến bữa trưa rồi.
Thế là đi một đoạn nữa, chiếc xe rẽ qua đường tàu, chui vào chiếc ngõ nhỏ và đậu trước một quán thịt chó. Các món ăn được bày ra cùng bia Tiger. Câu chuyện thưa thớt giữa chúng tôi chỉ xung quanh chuyện gia đình và học hành, không mảy may dính đến công việc. Khi thanh toán hết 144 nghìn đồng và tôi lặng lẽ lấy tiền thanh toán.
Vào đến trại giam thì đã đầu giờ chiều. Tôi làm thủ tục nhập trại khá nhanh bao gồm kê khai và chụp ảnh. Chỉ một ít quần áo và đồ dùng cá nhân được đem theo. Chiếc đồng hồ và cả chiếc nhẫn đeo tay nhỏ xíu cũng phải gửi lại phòng lưu ký.Thực ra trong hơn 20 năm làm báo, tôi đã được đi nhiều nơi, lùng sục nhiều chốn nhưng chưa bao giờ được bước chân vào nhà giam, lại là nơi giam chính mình chưa biết ngày nào ra nên tôi ngắm nó khá kỹ. Những bức tường dày lạnh lẽo, những hành lang khúc khuỷu, những cánh của sắt nặng nề khiến tôi nghĩ nếu mình phải làm việc cả đời ở đây thì cũng chẳng sung sướng gì. Thế mà những nhân viên an ninh sẽ gắn bó cả cuộc đời công vụ của họ vào chốn này quả là đáng thông cảm.
Cánh cửa sắt ập lại sau lưng mấy giây sau tôi mới lờ mờ nhận ra hình thù của buồng giam. Nó khoảng 6m2, tối đen và lạnh lẽo. Hai bên là hai bệ xi măng làm giường ngủ, ở giữa là một lối đi nhỏ. Sát sau hai bệ xi măng là một bể nước nhỏ và toa lét, được chắn bởi một bức tường ngăn. Tôi hơi giật mình vì chợt phát hiện ra trên cái bệ xi măng bên trái là một đống gì đen đen, ánh lên hai đốm sáng nho nhỏ. Khi hết quáng gà tôi mới nhận ra đấy là người bạn tù đã bị bắt giam trước tôi ít ngày. Vì bài viết này không phải là một đoạn của hồi ký nên chuyện về số phận những người bạn tù không kể ra đây, nhưng tôi tin chắc rằng đó là những số phận đầy chất mạo hiểm, ly kỳ và hấp dẫn.
Trong suốt 1 năm 13 ngày bị tạm giam, ngoài những buổi đi cung, tôi không được ra ngoài, không tiếp xúc với ai trừ những người bạn tù được thay đi đổi lại khoảng 3-4 tháng một lần. Trong các cuộc hỏi cung, các điều tra viên hỏi rất nhiều thứ, nhưng tôi cho rằng hình như họ đã nhầm lẫn trong việc quyết định bắt giam tôi.
Một hôm, khi tra xét về việc lộ bí mật quốc gia, trung tá Mạnh đặt trước mặt tôi một văn bản đánh máy bằng giấy pơluya có đóng dấu đỏ chót quy định về các danh mục thuộc bí mật quốc gia:
– Anh có biết cái văn bản này không?
Tôi lắc đầu:
– Lần đầu tiên tôi nhìn thấy văn bản này?
Anh ta nhăn mặt:
– Tại sao lại không biết? Làm Tổng biên tập thì anh phải biết chứ?
Tôi lại phải giải thích cho anh ta rằng người làm báo phải biết nhiều thứ nhưng không có nghĩa là thứ gì cũng biết và văn bản này là tôi không biết thật. Anh ta liền lướt ngón tay theo các danh mục trên văn bản, dừng lại ở dòng “Kế hoạch mua tàu cao tốc của ngành hải quan” và nói:
– Tàu cao tốc của ngành hải quan là thuộc danh mục bí mật quốc gia, anh hiểu không?
– Tôi hiểu nhưng văn bản này không liên quan đến hành vi của tôi?
– Tại sao vậy? – Anh ta ngạc nhiên.
– Anh không đọc thấy hai chữ “kế hoạch” sao? Khi còn là kế hoạch thì mới thuộc danh mục này. Còn khi nó đã được mua về rồi, dùng nát ra đấy rồi thì đâu còn nằm trong danh mục này nữa?
Sau khi nghe tôi trả lời, mặt anh ta thoáng biến sắc và hỏi:
– Câu trả lời vừa rồi là anh đã chuẩn bị sẵn hay vừa nghĩ ra?
– Bây giờ tôi mới được đọc văn bản này thì làm sao mà chuẩn bị sẵn được.
Thế là tôi thoát được cái tội “Cố ý làm lộ bí mật quốc gia”, còn cái tội “Lợi dụng tự do dân chủ…” thì không có cách nào thoát nổi. Hôm ở phiên Tòa, tôi nói rằng trong hơn 100 thông tin về vụ tàu cao tốc, có 3 thông tin sai, Tòa soạn và cá nhân tôi sẵn sàng xin lỗi về những thông tin sai đó thì Tòa không chấp nhận và khẳng định, hôm nay Tòa chỉ xem xét 3 thông tin sai đó và xác định rằng đó là hành vi cố ý, đã xúc phạm danh dự và uy tín của ngành hải quan. Tôi tự thầm cười trong bụng vì ngay trong bản cáo trạng trong vài trang giấy đã có nhiều thông tin sai có thể chứng minh được ngay, như quy kết tôi “không trao đổi với ai trong Ban biên tập mà quyết định đưa ngay lên báo” hoặc một tình tiết hết sức đơn giản là ngày sinh tháng đẻ của tôi đáng lẽ đúng là 29/4/1952 thì trong bản cáo trạng lại là 20/12/1952. Nhưng thôi, chẳng quan trọng. Một khi bản án đã được đút sẵn trong
túi của quan tòa thì mọi sự tranh cãi đều vô nghĩa. Sau đó Tòa kết án tôi án tù đúng thời gian bị tạm giam và thả tự do ngay tại Tòa. Hôm ấy là ngày 21/10/2008.
Chắc sẽ có bạn đọc quan tâm muốn hỏi rằng sau này tôi sống ra sao, có tiếp tục làm báo nữa không. Đến đây, tôi chợt nhớ đến một câu dặn dò của một điều tra viên trước khi ra Tòa:
– Anh Linh ạ, tôi khuyên anh sau này, khi ra khỏi đây anh đừng viết lách gì nữa. Nếu không lại phải quay lại đây đấy.
Tôi không hiểu đây là lời khuyên chân tình của một con người đã gặp quá nhiều bài học của cuộc đời hay một lời răn đe của một công an viên. Tuy vậy, tôi cũng nói rất thật lòng:
– Các anh ở đây cả đời còn được nữa là tôi mới có hơn một năm.
Nghe xong, anh ta lắc đầu nói:
– Đúng là miệng lưỡi của các nhà báo các anh.
Vì là nghiệp làm báo đã ngấm vào tận xương tủy nên từ ngày ấy đến nay, tôi vẫn viết báo đều đặn và đã in được một cuốn sách gần 300 trang với tựa đề “Nhà quản lý-Anh là ai?”. Hiện nay, mỗi tuần tôi viết 2-3 bài cho một vài tờ báo theo các chuyên mục. Đặc biệt, cũng nhờ vốn sống trong khi bị tạm giam, tôi viết được một truyện ngắn duy nhất trong đời đã đăng trên báo Văn Nghệ trẻ với tựa đề “Tử tù câm”.
Để kết bài viết không biết nên buồn hay nên vui này, mới nhận thấy rằng, căn bệnh mua tàu cũ biến thành tàu mới, biến tài sản của nhân dân thành tài sản của cá nhân như ở Vinashin, Vinalines… đã xuất hiện cách đây đã hai chục năm, nhưng nhờ những thế lực bưng bít cho nên đất nước mới phải trả giá đến tận bây giờ.
(Tác giả gửi cho QTXM)
---
Bổ sung 1 (12/4/2015): Một truyện ngắn của NHL, vừa đăng trên QTXM. Tôi lấy từ bên đó về.
TBT Nguyễn Hoàng Linh đang kiển tra tàu cao tốc xem bài viết của phóng viên có chính xác không
Tử tù câm
Truyện ngắn của Nguyễn Hoàng Linh
Hắn bị giam ở cạnh buồng của tôi. Gần một tháng trời kể từ ngày tôi bị giam vào đây, hắn không nói một lời nào. Dãy buồng B lẻ lặng như câm, như điếc. Theo số suất cơm của người “tù tự giác” bê vào thì cả dãy chỉ có hai người, tôi và hắn.Thời gian lặng lẽ trôi đi như dòng nước chảy ngược. Tương lai chẳng thấy đâu mà chỉ toàn hiện lên quá khứ.
Cái buồng giam bé hẹp chưa đầy 6 mét vuông, hai bệ xi măng lạnh ngắt, một bệ xí và một chiếc bể nước con khiến lồng ngực như khép lại, tức thở. Đêm đến, giấc ngủ chập chờn toàn những bóng ma và ác quỷ.
- Nó câm đấy! án “dựa cột”. Đang chờ ngày hành quyết.
- Trẻ lắm, mới 27 tuổi. Đẹp trai.
- Quê ở Thái Nguyên. Vừa cướp của, vừa giết người.
- Thỉnh thoảng khóc một mình. Tội nghiệp lắm!
…
Mỗi lần đưa cơm, người “tù tự giác” chỉ kịp thông tin từng mẩu về hắn như vậy. Cứ như người gom nhặt từng mẩu bánh mì rơi vãi để chắp thành một chiếc bánh mì, tôi mường tượng ra gương mặt và số phận của hắn.
***
“Có ai còn sống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi giật mình tỉnh dậy. Đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng o… o… của chiếc chấn lưu đèn ống mắc ngoài hành lang vọng vào. Cánh cửa sắt vẫn đóng im ỉm. Hình như có tiếng người, lại cả tiếng đập cửa? Không thể thế được. Đương nhiên không phải tiếng thằng câm. Vậy thì ai gọi? Vọng từ đâu đến? Hay là tiếng của những oan hồn?… Tim tôi đập thình thịch. Tôi khẽ nghiêng người, đưa mắt nhìn sang bệ xi măng bên cạnh. Không có gì. Không có bóng áo trắng nào nằm ở đấy cả. Người “tù tự giác” thỉnh thoảng nói với tôi rằng ở đây nhiều ma lắm. Hôm nào nghe tiếng chó tru lên ngoài xa là có ma về. Nhiều người tù đang đêm tỉnh dậy, thấy một bóng áo trắng nằm ngay bên cạnh mình. Rồi lại có người nhìn thấy ma đi lũ lượt ngoài hành lang, tay dắt cả chó ngao… Tôi không tin là trên đời này có ma và cũng chưa bao giờ gặp ma. Nhưng tôi vẫn cho rằng có một “thế giới vật chất phi truyền thống” nào đó, tồn tại ở một dạng sóng hạt nào đó mà chỉ một số người “bắt” được tần số mới cảm nhận được.
Trường hợp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ngồi tại Hà Nội mà hướng dẫn người tìm mộ tận trên rừng Trường Sơn, nói đâu đúng đấy trong hàng trăm trường hợp thì đâu còn là sự ngẫu nhiên. Có lẽ ma đang nằm bên cạnh mình thật, đang nói, đang gọi thật, đang đập cửa thật mà mình chỉ cảm nhận được khi ngủ chứ không cảm nhận được khi thức. Tôi cứ tự an ủi mình bằng cách nghĩ như vậy và yên tâm quay mặt vào tường ngủ tiếp.
“Có ai còn số… ố… ống khô… ô… ông!”. Thình… Thình… Thình… Tôi lại choàng tỉnh. Song lần này khác với lần trước, sau tiếng “khô… ô… ông” cuối cùng ấy là một tiếng nấc vô vọng. Tôi tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, lao ra cửa, tay nắm lấy song sắt. Ngoài hành lang vẫn vắng lặng. Ánh đèn nê-ông nhợt nhạt như màu của xác chết. Tôi lấy hết can đảm thì thào “Ai đấy! Có tôi đây!”. Tôi linh cảm thấy rằng đấy là tiếng gọi của thằng câm.
- Anh ở phòng nào? – Tiếng người reo lên nho nhỏ.
- B13! – Tôi thầm thì.
- Tôi B15. Tôi là thằng câm đây!
- Câm sao lại nói được?
Lặng đi vài giây, thằng câm khe khẽ:
- Chuyện dài lắm. Có lẽ tôi sắp phải “đi” rồi.
Rồi thằng câm kể: Quê tôi ở Thái Nguyên. Anh đã lên Thái Nguyên bao giờ chưa? Vùng đất đồi núi, chó ăn đá, gà ăn sỏi ấy, chẳng có cái gì tồn tại được trừ cây chè và cái đói, cái nghèo. Nhà tôi có sáu người. Nói là sáu song thực chất chỉ có năm: bố, mẹ và ba anh em tôi. Tôi ở giữa. Còn đứng thứ sáu là một con chó. Nó tên Tu Tu, bảy tuổi. Nhà tôi nghèo, thiếu đủ thứ song không thể thiếu con Tu Tu. Nó cùng vui, cùng buồn với tất cả mọi người trong nhà, nó thân thiện với bạn bè, người thân của gia đình nhưng cực kỳ hung dữ với những kẻ có tâm địa ác độc. Ai đến nhà chơi, nếu con Tu Tu nằm ngay bên cạnh khách, thỉnh thoảng gầm gừ, ấy là báo hiệu người nhà phải cảnh giác người đang ngồi chơi đấy mà tâm địa tối tăm. Còn những người khác, nó lảng ra ngoài cổng. Nó biết cảm thông, chia sẻ cái nghèo với chủ. Nhà tôi một tháng, năm thì mười họa mới có một bữa cơm có thịt, và hôm ấy, bao giờ con Tu Tu cũng biến mất, không ngồi chồm hỗm, vui vẻ với chủ như những bữa khác. Chỉ khi cả nhà ăn xong, bưng cái mâm bát ra bờ giếng để rửa thì nó mới len lén xuất hiện, la liếm những mẩu xương thừa một cách ngon lành. Có lẽ nó hiểu rằng có nó trong bữa ăn, số thịt ít ỏi kia sẽ phải chia làm sáu chứ không phải làm năm. Hành động “nghĩa hiệp” của nó khiến cả nhà tôi càng thương nó hơn, gặm miếng xương cũng gặm dối hơn, miếng thịt cũng cấu lại một ít giả vờ là xương để lại góc mâm dành cho nó.
Thế mà một hôm, đến bữa cơm chiều không thịt, không cá, con Tu Tu biến mất. Cả nhà tôi bàng hoàng, biết sự chẳng lành đã xảy ra với nó. Một tai họa khủng khiếp mà gia đình tôi chưa bao giờ gặp phải. Không thể ai bắt trộm được nó vì nó rất khôn và rất dữ. Nó không thể bỏ chúng tôi được vì cũng như chúng tôi không thể bỏ nó. Thế mà suốt từ trưa đến lúc cả nhà ngồi quanh một mâm cơm toàn ngọn rau lang luộc với muối vừng, nó vẫn không về. Cả nhà chẳng ai nuốt nổi lưng bát cơm. Bố tôi ngồi thẫn thờ trên chiếc phản cũ kỹ giữa nhà, rít thuốc lào sòng sọc. Mẹ tôi kê đôi dép nhựa rách, ngồi đầu thềm vừa ngóng con Tu Tu vừa lau nước mắt.
Thằng em trai tôi bưng mâm cơm ra bờ giếng, khóc ti tỉ. Chỉ riêng ông anh tôi, mặt lì lì, chẳng nói chẳng rằng. Cả nhà nặng nề như có tang.Khoảng 10 giờ đêm, anh tôi lôi tôi ra đầu nhà, giọng lạnh sắc:
- Thanh! Mày còn giữ con dao găm hồi trước không?
Tôi hơi chột dạ:
- Còn. Nhưng anh cần làm gì?
- Đi cứu con Tu Tu.
Tôi mứng quýnh:
- Sao? Anh tìm được con Tu Tu rồi à? Anh biết chỗ con Tu Tu à? Nó bị bắt trộm hay sao?
- Lấy con dao găm ra đây – Giọng anh vẫn lạnh ngắt.
Tôi cuống lên:
- Thế thì phải cứu bằng được nó – Nói rồi, tôi vội chạy vào bếp, lấy con dao giắt trên mái, giấu trong một ống tre.
Anh tôi bảo:
- Phải mang theo cái kìm cắt nữa. Nó đang bị nhốt ở trong một chiếc cũi mắt cáo.
Chúng tôi chuẩn bị xong xuôi và lặng lẽ ra đi trong đêm tối, hướng về thành phố. Hôm ấy trời đầy sao. Từ nhà tôi ra đến thành phố chưa đầy 6km. Gió heo may mát lạnh của mùa thu không làm giảm khí thế hừng hực trong tôi. Song tôi có biết đâu rằng, đó là một đêm tối định mệnh, một đêm không bao giờ xảy ra lần thứ hai trong đời.
- Sao anh tìm ra đứa bắt trộm con Tu Tu?
- Nó không bị bắt trộm. Tao đã bán nó.
- Trời! – Tôi kêu lên và đứng sựng lại giữa lưng chừng dốc một quả đồi – Không
thể có việc đó được. Anh nói dối.Anh tôi kéo tay tôi lôi đi:
- Tao nói thật đấy.
- Anh không phải là người vô lương tâm. Nếu vô lương tâm, con Tu Tu nó đã biết, nó sẽ không bao giờ chơi với anh. Nhưng đằng này, nó quý anh nhất nhà…Anh tôi vẫn lầm lũi đi về hướng thành phố. Đường đồi gập ghềnh, mấp mô, chỗ lồi chỗ lõm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị vấp ngã chúi mũi.
- Anh bán cho nhà nào?
- Tuấn thịt chó.
Mấy tiếng “Tuấn thịt chó” khiến tôi choáng váng. Con Tu Tu mà vào tay nhà ấy chắc gì giờ này còn sống. Như hiểu được tâm trạng của tôi, anh nói:
- Hôm nay đầu tháng, khách ăn thịt chó ít, nó chưa bị giết đâu. Tao vừa đi quan sát về.
- Sao anh lại bán nó? – Tôi hỏi và hồi hộp đợi câu trả lời.
Bóng đen bên cạnh tôi vẫn lầm lũi di chuyển, rồi phát ra những âm thanh cục mịch, khô khốc như những viên sỏi ném vào màn đêm:
- Tao cần tiền. Thằng Tiến bị tai nạn gãy chân. Không có tiền chạy chữa. Tao chẳng còn cách nào khác.
Tôi thở dài và thấy thương anh tôi. Anh Tiến là bạn nối khố của anh tôi từ nhỏ, cùng học với nhau, cùng đi làm thuê với nhau và cùng cảnh nghèo với nhau. Chỉ khác một điều bố mẹ anh Tiến mất sớm, để lại 3 đứa em nhỏ, nhà nghèo đến sát tận xương tủy. Quả thật, đối với anh tôi, giữa anh Tiến và con Tu Tu, chẳng thể phân biệt bên nào hơn bên nào, chỉ có điều một bên là con chó và một bên là con người. Anh Tiến hơn phân có lẽ là vì cuộc sống của 3 đứa em nhỏ. Anh Tiến sống thì chúng nó sẽ sống…
Nhà Tuấn thịt chó ở ngoại thành, bên con đường đá lẫn nhựa lổn nhổn. Đằng sau nhà là một cái ao lớn, xung quanh trồng chè lúp xúp. Trong bóng đêm, anh tôi chỉ cho tôi chỗ nhốt con Tu Tu, phần chái nhà sau bếp. Từ chỗ hàng rào bên hông nhà, qua vườn chè là tới bếp. Cũi chó đặt ở đó. Tôi được phân công đứng ngoài hàng rào nghe ngóng.Anh tôi như một con mèo, nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào cao ngang lưng, lom khom vượt qua vườn chè, tiến về phía bếp. Có tiếng “ư ử” khe khẽ của con Tu Tu. Nó đã đánh hơi được chủ. Tim tôi như muốn vỡ ra. Con Tu Tu vì vui mừng mà làm lộ thì không còn cách nào cứu thoát. Thật may, con Tu Tu đã im bặt, chỉ còn tiếng thở của nó. Rồi tiếng lách cách kìm cắt dây thép… Bỗng có tiếng kẹt cửa. Tôi nín thở. Cửa nhà trên mở. Ông chủ thịt chó từ từ tiến về phía nhà bếp. Nguy mất rồi, ông ta đã chặn đường ra. Nếu lộ, chỉ còn một nước là nhảy xuống ao, mà xuống ao là đường tử.
Có tiếng vật nhau uỳnh uỵch. Tiếng kêu thất thanh. Tiếng ú ớ. Tiếng chân người chạy sầm sầm trong nhà, ngoài bếp. Tôi đang loay hoay chưa biết làm thế nào thì thấy bóng con Tu Tu vút qua hàng rào. Tiếp là anh tôi vụt qua theo, ngay chỗ tôi ngồi náu. Một bóng đen đuổi sát. Theo phản xạ tự nhiên, tôi vụt dậy, lao ra ôm chặt lấy bóng đen. Sau mấy giây vật lộn, giằng ra không được, bóng đen liền ôm chặt lấy tôi và hô lớn: “Cướp! Cướp! Bà con ơi, bắt lấy nó”. Dân chúng vây quanh tôi, đèn pin loang loáng. Tôi bị đánh một trận nhừ tử. Mặt mũi, tay chân chỗ nào cũng sưng húp, đau nhừ. Họ dùng dây thừng trói gô tôi lại như bó giò, kéo lê tôi tới đồn công an…
* * *
Cửa sắt nhà giam ken két mở. Tiếng kể chuyện của thằng câm im bặt. ở trong nhà giam này, mọi người ai mắt cũng kém đi và tai lại thính lên, thính nhạy không kém gì tai chó, tai mèo. Chỉ nghe tiếng chân người đi ngoài hành lang là biết đó là ai, quản giáo hay “tù tự giác”, người chữa điện hay người đưa cơm. Tiếng mở cửa, đóng cửa sắt cũng như giới thiệu được tên người, tính cách. Hôm nay, đang nửa đêm có cán bộ quản giáo đi tuần thế này, chắc là có vấn đề nghiêm trọng.Tiếng giày của người cán bộ quản giáo rõ dần. Tôi vội chui vào màn, nằm im giả vờ ngủ. Ông quản giáo này tên là Duy, quê ở Bắc Ninh. Ông có gương mặt đầy đặn, phúc hậu, song đôi mắt hơi buồn, khi nói chuyện, đôi chân mày hơi nhíu lại. Người ta bảo những người như thế thường đa cảm, thương người, số sẽ vất vả. Riêng với ông quản giáo Duy, tôi có cảm tình với ông ngay từ đầu, không phải chỉ vì tướng mạo mà vì cách cư xử. Ông quan tâm đến tù nhân như bác sĩ quan tâm tới bệnh nhân, hỏi han, chăm lo từng tí một. Chính ông đã khiến tôi xoá hết những gì ác cảm từ xưa đến nay về nhà tù. Thì ra, nơi nào cũng có những người tốt, thậm chí rất tốt nữa là đằng khác.
Quản giáo Duy đến trước cửa buồng giam chúng tôi thì dừng lại, nghe ngóng một hồi rồi lẩm bẩm:
- Quái, rõ ràng có tiếng người rì rầm ở chỗ này. Chẳng lẽ lại có ma?
Ông nghé vào buồng tôi, sang buồng thằng câm đứng một lúc, lẩm bẩm thêm vài câu gì đó rồi quay trở lại phòng trực ban.Một lát sau, tiếng thằng câm thì thầm:
- Anh vẫn còn thức đấy chứ?
- Còn! Tôi vẫn nghe đây. Anh không giết người sao lại nhận án tử hình?
- Tôi không giết người nhưng anh tôi giết. Tôi không thể ngờ được rằng anh tôi đã đâm chết ông chủ hiệu thịt chó. Đêm hôm ấy, họ hỏi cung tôi. Tôi nói tôi là người qua đường, thấy tiếng í ới, nhộn nhạo, rồi thấy có người nhảy qua hàng rào. Tôi nghĩ là kẻ trộm nên ôm chặt lấy người đó. Tôi không hề biết đấy là con trai ông chủ hiệu thịt chó. Cũng không biết là trong nhà có vụ giết người. Nói rồi, nói mãi, công an họ vẫn không tin. Họ cho xét nghiệm hiện trường, xét nghiệm tất cả những thứ trên người tôi có. Họ nói rằng mấy sợi tóc rơi trên nền bếp nhà ông chủ hiệu thịt chó chính là của tôi. Vết máu trên áo tôi là máu của ông chủ hiệu thịt chó. Tất cả mọi chứng cứ đều chống lại tôi. Vợ chồng con trai ông chủ thịt chó quyết tâm trả thù cho cha bằng cách dựng hiện trường giả. Ngay sau khi tôi bị dẫn lên đồn công an, nó lập tức về mở tung cửa tủ, vứt mấy cái nhẫn vàng vung vãi khắp nhà. Lấy ngay cái gậy mà nó đã đánh vào đầu tôi làm tang vật để lấy mẫu máu và tóc của tôi tại hiện trường. Vết máu trên áo tôi chính là vết máu trên áo nó dây sang. Khi vật lộn trong bếp, máu của bố nó đã thấm đẫm vào nó. Rồi khi vật lộn với tôi, máu ấy lại dây sang tôi. Cái bản tự khai của vợ chồng nó mới ác độc. Nó mô tả rằng khi nghe tiếng cạy cửa, vợ chồng nó đã biết là kẻ trộm, song khi thấy tay tôi lăm lăm cầm dao, nên không dám động tĩnh gì. Đến khi tôi cạy tủ, lấy hết vàng bạc nhà nó chuồn ra sau bếp thì chẳng may đúng lúc ông bố ở nhà dưới dậy ra vườn đi tiểu đêm bắt gặp, thế là tôi bỏ của chạy lấy người, đâm chết bố nó. Chạy ra đến hàng rào thì nó đuổi bắt được tôi.
Trong vụ việc này, chỉ có hai người biết chắc chắn tôi không phải là kẻ giết người, cướp của, đó là con ông chủ thịt chó và anh trai tôi. Tôi đã từng hy vọng lương tâm con ông chủ thịt chó sẽ cắn rứt, sẽ tự đứng ra rút lời khai bịa đặt kia. Nhưng việc ấy đã không xảy ra. Tôi không trách gì anh ta. Nỗi đau mất cha của anh ta quá lớn. Đời anh ta lại quá quen với mùi tanh của máu, dù đó là máu chó. Nếu một chút nào vô lương tâm, độc ác và tàn nhẫn thì cũng là điều dễ hiểu. Còn anh trai tôi, sau khi nghe tôi bị kết án tử hình, anh trở nên điên loạn, lúc khóc, lúc cười, thỉnh thoảng lại đập đầu vào bất cứ thứ gì có thể đập được và kêu đến khản tiếng: “Tôi giết em tôi rồi! Tôi giết em tôi rồi!”. Một ngày kia, anh viết đơn tự thú kể lại tất cả. Từ việc bán con Tu Tu, đi cứu con Tu Tu, rồi bị dồn vào tình thế quẫn bách, vô thức nên đã vô ý giết người. Trong đơn, anh xin chịu tội chết thay cho tôi vì tôi không có tội. Tôi không hiểu cái đơn tự thú ấy có làm ai tin không, song tại buổi thẩm vấn gần đây nhất, tôi đã viết bản lời khai xác định rằng tôi là kẻ giết người. Anh ấy thương tôi mà nghĩ ra câu chuyện ấy. Lời khai của tôi được các cơ quan pháp luật tin ngay lập tức, vì tất cả các sự kiện được khớp vào nhau đến mức không thể còn một khe hở nghi ngờ nào lọt qua. Người tố cáo có, người làm chứng có, người nhận tội có, vật chứng có… tất cả đều y như thật.
Tôi làm việc này vì đã nghĩ kỹ lắm rồi. Ở đời, ân oán phải sòng phẳng. Nhà mình đã giết chết một người của nhà người ta thì nhà mình phải có một người đền mạng. Mình không đền rồi cuộc đời cũng sẽ bắt mình phải đền. Việc đã lỡ rồi, làm sao bây giờ. Cả nhà tôi bây giờ chỉ có tôi là đáng đền mạng nhất. Bố mẹ tôi thì già rồi, bao nhiêu năm nuôi chúng tôi khôn lớn, vất vả nhọc nhằn từ mờ sáng đến tối mịt, không đáng phải chịu đựng thêm bất cứ một bất hạnh nào của cuộc đời. Em trai tôi còn nhỏ dại, nó cần phải được học hành nên người. Còn anh tôi. Anh ấy lại càng đáng được sống hơn, vì anh ấy đã mất cả cha lẫn mẹ. Từ nhỏ đến lớn, nỗi đau mất mát luôn luôn đeo đẳng anh ấy mặc dù gia đình tôi, kể cả con Tu Tu, đã dành cho anh tình thương lớn nhất.
***
Lại có tiếng lách cách khoá cửa sắt phía đầu hành lang. Vẫn tiếng giày của quản giáo Duy. Chúng tôi im bặt và chui vào màn giả vờ ngủ. Tiếng ngáp dài và tiếng lầu bầu vọng vào: “Đúng là có ma. Hay mình mơ ngủ. Vớ vẩn thật”. Tiếng giày xa dần, xa dần.
* * *
Câu chuyện của chúng tôi lại tiếp tục.Bố tôi và bố anh ấy cùng chung đơn vị bộ đội. Trong một trận chiến đấu, bố anh ấy bị thương nặng. Trước khi mất, ông nắm tay bố tôi vừa nói vừa ứa nước mắt: ”Tôi chỉ có duy nhất một đứa con trai. Nó mất mẹ từ nhỏ. Nó không thể không có bố. Anh hãy là bố nó thay tôi”. Nói rồi, ông tắt thở. Anh tôi lớn lên trong gia đình tôi như người con đẻ. Anh thương bố mẹ nuôi, thương các em, thương con Tu Tu hơn cả thân mình.
Anh sống tự tin và hiếu thảo. Anh chưa làm điều ác với ai bao giờ. Với bạn bè, anh không tiếc một thứ gì. Như việc của anh Tiến đấy, anh đã phải đứt ruột bán con Tu Tu để cứu lấy bạn, cứu lấy cuộc sống của ba đứa em nhỏ của bạn. Rồi lại phải làm cái việc vô cùng độc ác để cứu con Tu Tu. Anh ấy đang có người yêu. Anh ấy sẽ lấy vợ, và sẽ có con. Bố anh ấy dưới suối vàng chắc sẽ mãn nguyện lắm…
***
Câu chuyện của thằng tử tù câm cứ thì thầm, thì thầm như một huyền thoại. Lời kể của hắn tuôn như suối chảy, rì rào, trong vắt, thanh thản, không giận hờn, không nuối tiếc. Cuộc sống bình dị của một gia đình nghèo vùng bán sơn địa thấp thoáng trong trí tưởng tượng của tôi. Một mái nhà tranh thưng ván gỗ nằm nép dưới chân một đồi chè. Từ đỉnh đồi, những hàng chè mềm mại như sóng biển lan dần xuống chân đồi. Nắng sớm nhuộm vàng xanh những đồi chè lô xô. Nhìn màu nắng, người ta liên tưởng đến bát nước chè xanh cắm tăm, đượm chát và ngọt hậu. Nếu không có câu chuyện của thằng câm, tôi không thể nghĩ rằng ở đó có những con người sống cao nghĩa đến như thế. Tôi hỏi vọng sang:
- Thế anh bị câm từ khi nào?
- Ngay tại phiên tòa, sau khi nghe tuyên án: “Chịu mức hình phạt cao nhất: Tử hình!”. Tôi muốn thốt lên một lời nào đấy song lưỡi cứng lại, cổ họng nóng ran như bị đứt một cái gì đó. Và từ đấy, âm thanh duy nhất của tôi có thể phát ra được là tiếng ú ớ. Bản năng sinh tồn đã khiến có một phần nghìn tia hy vọng loé lên trong tôi, rằng sự thật và sự trong sáng của lương tâm sẽ phán quyết tại tòa. Thế nào tòa cũng tìm ra được một dấu vết nào đấy của sự thật. Chân lý sẽ được khẳng định, nhưng tôi đã nhầm. Tất cả đã được định sẵn. Đã sáu tháng rồi, không hiểu tại sao hôm nay tôi lại nói được. Có lẽ điềm trời báo trước là tôi sắp đi rồi.
***
Quả đúng như thằng câm dự đoán. Khoảng 4 giờ sáng, tiếng khóa hành lang lách cách. Tiếng chân rậm rịch, toàn người lạ, đi về phía chúng tôi. Cửa buồng giam thằng câm được mở. Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng trao đổi thì thầm. Tôi nhổm dậy, nhìn qua song sắt và nổi gai khắp người: “ Đội thi hành án”.
Thằng câm đi qua buồng tôi, gương mặt trẻ trung, cương nghị, thông minh hiện ra trước mắt tôi. Trong giây lát, tôi thoáng thấy hai giọt nước mắt lăn trên gò má như còn lông măng của hắn. Tôi hai tay nắm chặt chấn song sắt nhà tù, muốn hét lên một câu: “Thả người ta ra, người ta không có tội” nhưng không phát ra được lời nào. Lưỡi tôi cứng lại, cổ họng tôi nóng ran như bị cứa đứt một cái gì đó. Tôi gục vào cánh cửa. Nước mắt cứ thế trào ra…
(Tác giả gửi cho QTXM)
http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/476502
0 Response to "Nhà báo Đại Việt tâm sự về nghề (kí giả Nguyễn Hoàng Linh)"
Đăng nhận xét
Vui lòng không Spam. Thanks các bạn