Giương cung phải giương khoẻ,
Vót tên phải vót dài.
Bắn người nhằm ngựa nổ,
Bắt giặc nhằm vua truy.
Giết người có hạn độ,
Mỗi nước có biên thuỳ.
Miễn chặn xâm lăng lại,
Giết hại nhiều mà chi!
Vót tên phải vót dài.
Bắn người nhằm ngựa nổ,
Bắt giặc nhằm vua truy.
Giết người có hạn độ,
Mỗi nước có biên thuỳ.
Miễn chặn xâm lăng lại,
Giết hại nhiều mà chi!
(挽弓当挽强,用箭当用长。
射人先射马,擒贼先擒王。杀人亦有限,列国自有疆。
苟能制侵陵,岂在多杀伤)
Gần đây, các nhà dân tộc học Trung Quốc và Việt Nam lần tìm được một số trường ca đánh giặc của đồng bào vùng biên giới Việt Trung.
Rất nhiều người mừng rỡ vì tựa như tìm ra được kho tàng văn học dân gian quan trọng. Rằng tư tưởng hòa bình đã thấy rất rõ trong văn học dân gian. Mà cái gì thuộc về dân gian thì thường được gắn luôn là thời thái cổ, thời xửa xửa, lúc còn thuộc phạm trù nguyên thủy !
Nhưng sau đó, cũng đã có người thì chỉ ra: loạt trường ca ấy, chẳng qua là một kiểu diễn nôm thơ Đỗ Phủ. Cụ thể đó là chùm gồm 9 bài "Tiền xuất tái", lại chùm gồm 5 bài "Hậu xuất tái" của Đỗ Phủ. Cả 14 bài này đã được nhà thơ viết từ thế kỉ VIII.
1. Các nghệ sĩ dân gian đã biến nội dung thơ Đỗ Phủ vào nghi lễ và truyền thừa nó trong cộng đồng làng xã.
2. Tư tưởng nhân đạo, trong đó có tinh thần phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã nướng mạng người, của Đỗ Phủ, được nhắc đến rất nhiều.
3. Ở Việt Nam, nhà thơ Hữu Loan thì gọi đó là "đạo đức của người lính", cần nhắc lại trước mỗi lần ra trận. Rất giản dị là:
- dù chống xâm lăng, cũng không được phí hoài mạng của chính bản thân mình,
- dù chống xâm lăng, cũng không được giết người một cách vô tội vạ.
Ông nói ở đây, vào năm 2000, tại chính ngôi nhà của mình.
---
TƯ LIỆU
1. Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Nguồn: Thơ Đỗ Phủ, Hoàng Trung Thông, NXB Văn Học, 1962
9 bài trong chùm "Tiền xuất tái"
1.
Bịn rịn bỏ quê cũ,
Vời vợi nhắm Giao Hà.
Hạn kỳ quan đã định,
Trốn tránh hoạ vào ta.
Vua đã giàu đất nước,
Mở bờ chi lắm a!
Vứt hết ân cha mẹ,
Làm thinh vác dáo ra.
2.
Rời nhà đã lâu lắm,
Ai bắt nạt được ta.
Ruột thịt ân há dứt,
Làm trai chết sẵn chờ.
Giục ngựa buông cương phóng,
Lỏng tay nắm dây hờ.
Lao xuống muôn tầng núi,
Khom người thử giật cờ.
3.
Mài dao dòng nước khóc,
Nước đỏ tay bị đứt.
Tiếng đứt ruột, coi thường,
Đã lâu ngày rối ruột.
Vì nước thề thân trai,
Oán hờn sao có được?
Công danh mong tạc bia,
Xương trận đành chóng mục.
4.
Coi lính có thầy đội,
Lính cũng có thân mà.
Sống chết cứ đi tới,
Chẳng nhọc thầy quở la.
Dọc đường gặp người quen,
Gửi thư nhắn về nhà.
"Ôi, khó cùng cay đắng,
Đôi ngả biệt mù xa."
5.
Xa nhà muôn dặm lẻ,
Đưa ta đến ba quân.
Trong quân khác vui khổ,
Chủ tướng thấu cùng chăng?
Cách sông thấy bóng ngựa,
Chớp mắt giặc Hồ dăng.
Ta chỉ làm tôi tớ,
Bao giờ lập công huân?
6.
Giương cung phải giương khoẻ,
Vót tên phải vót dài.
Bắn người nhằm ngựa nổ,
Bắt giặc nhằm vua truy.
Giết người có hạn độ,
Mỗi nước có biên thuỳ.
Miễn chặn xâm lăng lại,
Giết hại nhiều mà chi!
7.
Ruổi ngựa trời mưa tuyết,
Quân leo núi trập trùng.
Dốc dựng ôm đá lạnh,
Ngón rụng vào giá đông.
Xa trăng nhà lâu lắm,
Đắp thành bao giờ xong?
May chiều bay về nam,
Trông theo, khó gửi lòng.
8.
Thiền Vu cướp luỹ ta,
Muôn dặm gió bụi mờ.
Vung kiếm bốn năm bận,
Quân nó bị ta lùa.
Trói cổ nộp cửa tướng,
Bắt đưa về tên vua.
Nép mình trong hàng ngũ,
Công trận bàn chi thừa.
9.
Tòng quân mười năm lẻ,
Há không chút công nào?
Mọi người tranh được thưởng,
Muốn nói thẹn hùa nhau.
Trung Nguyên có loạn mãi,
Huống giặc rợ ngoài vào.
Làm trai chí bốn phương,
Gian khổ dễ từ sao?
2. Nguyên văn:
作者: 杜甫 |
戚戚去故里,悠悠赴交河。 公家有程期,亡命婴祸罗。 君已富土境,开边一何多。 弃绝父母恩,吞声行负戈。 出门日已远,不受徒旅欺。 骨肉恩岂断,男儿死无时。 走马脱辔头,手中挑青丝。 捷下万仞冈,俯身试搴旗。 磨刀呜咽水,水赤刃伤手。 欲轻肠断声,心绪乱已久。 丈夫誓许国,愤惋复何有! 功名图麒麟,战骨当速朽。 送徒既有长,远戍亦有身。 生死向前去,不劳吏怒嗔。 路逢相识人,附书与六亲。 哀哉两决绝,不复同苦辛。 迢迢万里余,领我赴三军。 军中异苦乐,主将宁尽闻。 隔河见胡骑,倏忽数百群。 我始为奴仆,几时树功勋。 挽弓当挽强,用箭当用长。 射人先射马,擒贼先擒王。 杀人亦有限,列国自有疆。 苟能制侵陵,岂在多杀伤? 驱马天雨雪,军行入高山。 径危抱寒石,指落层冰间。 已去汉月远,何时筑城还。 浮云暮南征,可望不可攀。 单于寇我垒,百里风尘昏。 雄剑四五动,彼军为我奔。 掳其名王归,系颈授辕门。 潜身备行列,一胜何足论。 从军十年余,能无分寸功。 众人贵苟得,欲语羞雷同。 中原有斗争,况在狄与戎。 丈夫四方志,安可辞固穷。 |
【图麒麟】汉宣帝曾图霍光、苏武等十一人于麒麟阁,以扬其功德 |
作者: 杜甫
男儿生世间,及壮当封侯。战伐有功业,焉能守旧邱。
召募赴蓟门,军动不可留。
千金买马鞍,百金装刀头。
闾里送我行,亲戚拥道周。
斑白居上列,酒酣进庶羞。
少年别有赠,含笑看吴钩。
朝进东门营,暮上河阳桥。
落日照大旗,马鸣风萧萧。
平沙列万幕,部伍各见招。
中天悬明月,令严夜寂寥。
悲笳数声动,壮士惨不骄。
借问大将谁?恐是霍嫖姚。
古人重守边,今人重高勋。
岂知英雄主,出师亘长云。
六合已一家,四夷且孤军。
遂使狴虎士,奋身勇所闻。
拔剑击大荒,日收胡马群。
誓开玄冥北,持以奉吾君。
献凯日继踵,两蕃静无虞。
渔阳豪侠地,击鼓吹笙竽。
云帆转辽海,梗稻来东吴。
越罗与楚练,照耀舆台躯。
主将位益崇,气骄凌上都。
边人不敢议,议者死路衢。
我本良家子,出师亦多门。
将骄益愁思,身贵不足论。
跃马二十年,恐辜明主恩。
坐见幽州骑,长驱河洛昏。
中夜间道归,故里但空村。
恶名幸脱免,穷老无儿孙。
【萧萧】《诗经·小雅·车攻》“萧萧马鸣,悠悠旆旌”
0 Response to "Đạo đức của người lính, nhắc trước mỗi lần ra trận"
Đăng nhận xét
Vui lòng không Spam. Thanks các bạn