Đối sách của Mạc Đăng Dung qua tường thuật của Hồ Bạch Thảo

Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh
Dịch thoát ý : Dân là thứ nhất, sau đến xã tắc, và cuối cùng mới là vua 
(Mạnh tử)


Thiết nghĩ rằng thần Đăng Dung có tội, còn dân đen vô can. Thiên tử không nỡ vì lỗi của riêng thần, mà chém giết dân chúng. Thần may mắn được vì dân chúng, nên không tiếc chút hơi tàn 
(Mạc Đăng Dung)

Đây là tường thuật lần đầu tiên trong lịch sử (từ năm 1540 đến nay). Nói vui là "truyền hình trực tiếp". Các nghiên cứu đi trước do không có điều kiện về sử liệu nên mới chỉ lướt qua (ví dụ trên blog này, xem thêm Nguyễn Văn SiêuTrần Quốc Vượng).

Qua tường thuật trực tiếp này thì mới rõ: phía Mạc chưa bao giờ cầu viện Trung Quốc, mà ngược lại, người cầu thiên triều mang quân vào đánh An Nam lại chính là nhà Lê (tập đoàn mà sau này viết ra Đại Việt sử kí toàn thư) !

Các nghiên cứu này đã tập hợp in trong bộ sách gồm 2 tập. Sách in ở hải ngoại. Các bài lẻ trích ra từ sách ấy, hay có liên quan, cũng in rải trong các tạp chí trong nước.

Ở trong nước, mấy năm gần đây, có hiện tượng sau: xài văn của Hồ Bạch Thảo một cách tự nhiên như nhiên (có thể gọi rõ là đạo văn). Có vài ba trường hợp mình đã thấy.

Bản ở dưới đây là lấy về từ talawas. Bản của talawas thì lấy từ bản của Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, S. 3(62) (2007).

"

Quỹ tín dụng đất nước/ The credit fund of the nation

Hồ Bạch Thảo

Tóm tắt


Khái niệm “tín dụng” là cách gọi ẩn dụ của tác giả để chỉ tinh thần quả cảm quyết chiến của dân tộc Việt Nam, là một thứ “tín dụng” bảo đảm, để trong nhiều trường hợp không bị ngoại bang ăn hiếp. Nếu sự uy dũng của một dân tộc giúp tránh được những cuộc chiến tranh trong lịch sử, thì “tín dụng” ấy giá trị gấp nhiều lần số lượng tài sản dự trữ trong ngân khố quốc gia; riêng sinh mệnh con người thì hẳn là không tiền nào mua được. Đây cũng là cách nhìn của tác giả khi nghiên cứu về thời nhà Mạc.

Qua bộ sử Thanh thực lục của Trung Quốc, tác giả đã tái hiện một cách sinh động quá trình chuẩn bị xâm lược nước ta của vua Minh Thế Tông, từ năm 1536 đến năm 1640[đúng là "1540", ở đây có lẽ đánh máy nhầm thành "1640" - chú thích của Giao Blog]. Sử liệu cho thấy, trong hơn 4 năm, đã xảy ra nhiều cuộc tranh cãi lớn trong nội bộ triều đình nhà Minh về việc đánh hay không nên đánh, có những đại thần, tướng lĩnh được giao trọng trách này lại tìm đủ mọi cách để từ chối, dù bị cách chức! Cuối cùng thì nhà Minh cũng đòi được Mạc Đăng Dung đến biên giới làm lễ đầu hàng một cách đầy hình thức. Gọi là hàng nhưng thực chất quan quân nhà Minh không hề đặt chân đến nước ta để kiểm soát, mọi việc nội bộ do nhà Mạc toàn quyền quyết định.

Nhìn lại các điều kiện đầu hàng do nhà Minh đặt ra, ta thấy nhờ “quỹ tín dụng” về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc quá cao, nên nhà Minh tránh không dám mang quân vào gây hấn.

ABSTRACT 
The concept of “credit” is a metaphorical term used by the author to indicate the resolutery courageous spirit of the Vietnamese people. It is also a “guaranteed credit” type used in many cases to stop foreign countries oppressing. If the dauntless bravery of a people helps avoid fighting in wars, the value of that “credit” is much higher than the value of the national property in the treasury especially the cost of human lives is invaluable. Here’s the author’s outlook on researching the Mạc Dynasty.
In the Chinese historical annals Thanh thực lục, the author has lively recounted the process of preparation to invade our country by King Minh Thế Tông from 1536 to 1540. According to some historical documents, for over 4 years there were many internal debates about the invasion of our country happened in the Ming Court.
Many high-ranking mandarins who were in charge of these heavy responsibilities refused to undertake though they were dismissed. However, the Ming Dynasty finally did persuade Mạc Đăng Dung to attend the surrender ceremony perfunctorily near the border of the country. To surrender for form’s sake, in reality the Ming troops did not cross and control our country border, all political affairs were completely decided by the Mạc Dynasty.
Looking back on these “surrender” conditions of the Ming, thanks to the “credit fund” of a very high tradition against foreign aggressions of our people, the Ming Dynasty didn’t dare to invade and provoke our country.


"



Từ đây trở xuống là của talawas. Có một ít lỗi trong bản này, là do "thắng đánh máy" hay do khâu biên tập.


---


9.2.2008
Hồ Bạch Thảo

Quỹ tín dụng của đất nước

1



Nói đến tín dụng mọi người nghĩ ngay đến thẻ credit card để vay tiền trả góp; điều đó không sai. Người Việt mình [ở Hoa Kỳ] chăm trả, lại có khi trả trước cho mau hết nợ, nên được các chủ ngân hàng tín nhiệm tăng tiền cho vay; bằng cách cho đổi từ thẻ thường, sang thẻ bạc, đến thẻ vàng v.v… Tín nhiệm đến nỗi càng vay nhiều càng tốt, tiền lời giảm, lại có thêm quà cáp. 



Bàn về tín dụng của đất nước, thường người ta liên tưởng đến trữ lượng vàng, bạc nằm trong ngân khố. Nhưng lãnh vực này không nằm trong chuyên môn của người viết, tại đây chỉ muốn bàn đến lòng quả cảm quyết chiến của một dân tộc, làm một thứ “tín dụng” bảo đảm, để nhiều trường hợp không bị ngoại bang ăn hiếp. Theo tài liệu về việc tiêu phí chiến tranh ghi trong Google, như chiến tranh Iraq nếu kéo dài đến năm 2010 thì Hoa Kỳ có thể tốn đến 600 tỷ đô la. Bởi vậy nếu cái uy dũng của một dân tộc giúp tránh được những cuộc chiến trong lịch sử, thì “tín dụng” đó còn cao hơn số lượng tài sản trữ trong ngân khố nhiều lần; riêng sinh mệnh con người thì hẳn là không tiền nào mua được. Tín dụng này có giá trị hai chiều: 

  • Đối nội, mọi người tin rằng một khi thực sự bị xâm lăng thì toàn dân quyết đánh.
  • Đối ngoại, kẻ ôm mộng xâm lăng phải kiêng dè, không dám liều lĩnh.

Qua lịch sử, xin nêu lên một vài bằng chứng đã xẩy ra: 

  • Dưới đời Trần, Nguyên Thế Tổ gửi một đạo dụ cho vua Trần Nhân Tông vào năm 1291, trong đó thú thực rằng vì mất Toa Đô, Ô Mã Nhi nên tạm thời chưa sang đánh nước ta: 

    ...Vì viên Trấn nam Vương trẻ tuổi nông nổi tiến quân bằng đường thủy, sai lầm không nghe lời chỉ bảo nên bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi mới rơi vào tay ngươi; nhờ vậy ngươi mới được tạm thời được yên ổn… [1] 

    Năm sau (1292) lập An Nam Hành tỉnh, sai Lưu Nhị Bạt đô đóng quân ngày biên giới để lăm le sang đánh, nhưng rút cuộc không dám. 

  • Vào đời nhà Thanh, nhân được tin vua Quang Trung mất; vua Càn Long điều danh tướng Phúc Khang An đến ngay biên giới hờm sẵn, và cho Thành Lâm sang nước ta mượn cớ phúng điếu để dò la. Nhưng nội bộ ta lúc bấy giờ không có triệu chứng nội loạn, lại nghĩ đến sự thảm bại trước kia tại thành Thăng Long, nên đành phải bóp bụng làm lành. [2]

Riêng nhà Minh thì rất lý thú, vua Gia Tĩnh muốn rửa mối nhục của các vua trước, nên định mang quân sang đánh nước ta. Nhưng các đạI thần lúc bấy giờ lần lượt vạch ra rằng An Nam không dễ khuất phục, cùng nêu rõ bánh xe đổ của tổ tiên dưới thời Vĩnh Lạc [1403-1424]; những lời nói thẳng này đã thực sự làm lung lay lòng tham của vua này. Sử liệu đề cập đến sự việc này tương đối nhiều và khá dài dòng, nhưng chúng tôi không dám bỏ sót; vì nghĩ rằng tìm hiểu quá khứ rất khó được chính xác, nhất là việc xảy ra cách hàng sáu trăm năm về trước. Bởi vậy mỗi tài liệu như một tấm hình chụp lại quá khứ, càng có nhiều hình càng thấy rõ vấn đề một cách toàn diện. 



Sự việc khởi đầu bởi tin mừng nhà vua mới sinh con trai đầu lòng, bèn sai sứ sang báo tin cho nước Triều Tiên và nước ta và nhân dịp để thăm dò tình hình: 



Ngày 30 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 15 [13/11/1536] 



Thiên tử trực tiếp dụ quan Thượng thư bộ Lễ, Hạ Ngôn, rằng: 



“Hoàng Thái tử mới sinh đã ban chiếu cáo cho thiên hạ biết; cớ sao riêng các nước ngoại quốc phải đợi đến lúc sách phong mới sai sứ ban chiếu dụ cho hay. Trong cõi trời đất có trăm nơi, Hoa và Di đều coi như nhau; sau này sách phong lại ban chiếu cho biết lần nữa; khanh nên bàn cách thi hành.” 



Ngôn tâu xin sai một viên quan Hàn Lâm làm Chánh sứ, một viên Cấp sự trung làm Phó sứ; mang chiếu thư đến dụ hai nước Triều Tiên, An Nam; đợi đến ngày sách phong lại sai đi một lần nữa. Thiên tử mệnh cho thi hành. [3] 



Sứ giả đi đến nước ta, nhưng giữa đường phải trở về, vì trong nước lúc bấy giờ có loạn lạc nên kẹt đường không vào được. Lợi dụng tình trạng trong nước ta “cò trai đang cắn nhau”, vua Minh Thế Tông tức Gia Tĩnh muốn dùng thế “ngư ông đắc lợi” định sang đánh nước ta. Quyết định bắt đầu từ năm 1536, nhưng mãi đến năm 1540 mới đòi được Mạc Dung đến biên giới làm lễ đầu hàng một cách đầy hình thức, vì thực sự không có một tên quân nào đặt chân đến lãnh thổ nước ta. Trong thời gian 4 năm dài, xẩy ra cuộc tranh cãi lớn trong nội bộ triều đình nhà Minh về vấn đề đánh hay không nên đánh, có những đại thần, tướng lãnh được giao việc này lại tìm mọi cách để từ chối, dù bị cách chức. 



Nói có sách, mách có chứng”; chúng tôi xin lần lượt giới thiệu từng văn bản để chứng minh rằng “quỹ tín dụng” quốc gia về lòng quyết tâm giết giặc, đã làm chùn chân đối phương. Xin hãy đọc qua lời đề nghị bộ Lễ nhà Minh, rồi đến quyết định của vua Thế Tông mang quân sang đánh nước ta: 



Ngày 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [16/11/1536] 



Trước đây Thiên tử lên ngôi, ban chiếu dụ cho An Nam, vì đường lối ngăn trở không đến được, nên phải trở về. Đến nay Hoàng thái tử sinh, lại sai sứ đem chiếu dụ đến. Bộ Lễ tâu rằng An Nam không làm tròn chức cống đã 20 năm nay; trước đây Thủ thần Lưỡng Quảng tâu Lê Huệ [Chiêu Tông], Lê Quảng [Cung Hoàng] không phải dòng đích do Lê Trừu [Tương Dực] lập; Mạc Đăng Dung, Trần Cảo đều là giặc soán nghịch; nay đúng lúc phải sai sứ đi hỏi tội, lấy danh Thiên tử để thay trời thảo phạtr. Lại gần đây quan Thủ thần Vân Nam tâu rằng bọn vong mệnh An Nam là Vũ Nghiêm Uy xâm phạm lãnh thổ, bắt Thổ quan, nên cùng khám xét chung. Phái đoàn trước đi bị ngăn trở vì đường sá không thông, nay tạm đình sai đi, để giữ vẹn quốc thể. Thiên tử phán: 



“An Nam chiếu sứ không thông, lại từ lâu không đến cống, phản nghịch đã rõ ràng hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh thảo sai bộ Binh bàn định gấp rồi tâu lên. [4] 



Kế hoạch dọn đường cho cuộc chiến bắt đầu, nhà vua sai hai phái đoàn quân áo gấm, đến biên giới Quảng Tây và Vân Nam để hạch hỏi tại sao không đến cống. 



Ngày 22 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [5/12/1536] 



Sai Cẩm y vệ Thiên hộ Đào Phượng Nghi, Bách hộ Vương Đồng đến Quảng Tây; Thiên hộ Trịnh Tỷ, Bách hộ Nạp Triều Ân đến Vân Nam; nhiệm vụ cật vấn và khám về tội An Nam soán đoạt, cùng sự tình bọn Vũ Nghiêm Uy phạm biên giới. [5] 



Tiếp đến bắt tay vào việc, nhà vua ra lệnh bộ Binh vạch kế hoạch đánh An Nam: 



Ngày 24 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 15 [7/12/1536] 



Bộ Binh hội nghị về việc chinh thảo An Nam, rồi tâu: 



“Xin long trọng cử một quan võ Đại thần sung chức Tổng binh Tổng đốc quân vụ; tiếp đến tuyển Phó tổng binh 2 viên, 4 viên Tham tướng, 4 viên Du kích tất cả đều dưới quyền tiết chế của Đại tướng Tổng binh. Lại cử một quan văn Đại thần có nhiều kiến thức về kinh bang tế thế để cùng bàn bạc việc đáng làm với quan Tổng binh Tổng đốc quân vụ. Trong hai ty Lưỡng Quảng và Vân Quý, hãy huy động những quan chức lớn nhỏ có tài, có sức, giỏi đảm đang chức vụ; giao cho trọng trách. Đặt hai viên Đại thần tổng đốc quân hướng [6] tại Lưỡng Quảng và Vân Quý; mỗi viên chọn 3, 4 người bộ thuộc có tài thu xếp vay, liệu biện tiền và thực phẩm; để cung cấp cho quân dụng. Quân binh chinh thảo chiếu theo tiền lệ thời Vĩnh Lạc [1403 1424], gần thì lấy tại Lưỡng Quảng, Vân Quý; xa lấy tại Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Hồ Quảng, Giang Tây Hán và Thổ quan quân. Vì đường sá xa xôi cách trở, nên truyền hịch mấy tháng trước, sắc cho các xứ Phủ, Án cùng tướng lãnh, để chỉnh đốn quân binh, chuẩn bị khí giới tuân theo sự chinh điều. Về lương hướng cũng sắc cho quan Phủ, Án các xứ tìm mọi cách để xử trí; phàm binh mã ra quân phải có đủ 2 năm lương ăn, để khỏi lo cảnh lâm trận mà thiếu lương. Sớ dâng lên, Thiên tử ban chiếu rằng có thể thi hành; vẫn ra lệnh quan đi tra khám sự thực, rồi báo theo phương tiện nhanh. [7] 



Sau khi kế hoạch xâm lăng nước ta được vạch ra, viên Thị Lang bộ Hộ Đường Trụ [tương đương với Thứ trưởng Bộ Kinh tế Tài chánh ngày nay] dâng lên 7 điều không nên đánh An Nam. Bản điều trần như gáo nước lạnh tạt vào mặt triều đình nhà Minh, đặc biệt là điều bốn đánh giá sức phản kháng của dân tộc ta rất cao. Dù không ưa những sự thực phủ phàng, nhưng đây là một văn bản rất có giá trị, nên bộ Binh khi trình lên vua, phải khen là “bàn mưu trung thành”: 



Ngày 1 tháng Chạp nhuần năm Gia Tĩnh thứ 15 [12/1/1537] 



Tả Thị lang bộ Hộ Đường Trụ dâng sớ can gián về việc đánh An Nam như sau: 



“Nhân vì An Nam không đến sân đình triều cống, sai quan Cẩm y vệ khám hỏi tội trạng, chiếu dụ trong ngoài nghiêm túc chuẩn bị, đợi phát binh. Thần thiết nghĩ nếu như việc hôm nay chỉ muốn An Nam đến triều cống mà thôi thì không những việc binh không cần dùng đến, mà quan đi khám cũng không cần. Nếu muốn đánh thì việc này quan trọng khá lớn, có 7 điều xét không thể làm, cần nêu ra: 



Đất đai giới hạn giữa Hoa và Di, trời đất đã định phận ra rồi; Đế Vương không thể dùng cách cai trị Trung Quốc để cai trị họ. Bởi vậy vua Cao Hoàng Minh Thái Tổ thần vũ hơn đời, nhưng đã ghi vào lời tổ huấn rằng không nên đánh An Nam, Bệ hạ đáng tuân thủ, đó là điều thứ nhất. 



Vua Thái Tông [1403-1424] đánh Lê Quí Ly tội giết chúa, đã cho tìm con cháu nhà Trần nhưng không gặp, bèn chia nước này thành quận huyện. Cái được không bù lại với phí tổn, Vua Nhân Tông [1425] ân hận về việc này. Thời đầu Tuyên Đức [1426-1435] thực hiện ý muốn của vua cha Nhân Tông và tổ Thái Tông, dẹp bỏ quận huyện rút lui khỏi An Nam. Nay chính sách đó đáng nên theo, đó là điều thứ 2. 



Trước đây thời An Nam thịnh vượng, các châu Khâm, Liêm, và ngay cả Ung; thường bị đe dọa. Từ đời Đường sau khi Cao Biền chinh phạt, đến Ngũ Đại, Tống; rồi đến việc lần lượt 8 họ Khúc, Lưu, Thiệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần [8] tranh quyền; trong thời gian đó các quận Lĩnh Nam giáp biển của ta, ít bị đe dọa báo động. Vậy Di Địch tao loạn là phúc cho Trung Quốc; không đáng mang quân đi hỏi tội, đó là điều thứ 3. 



Nếu bảo rằng An Nam là đất cũ của Trung Quốc, nên nhân lúc loạn chiếm đi. Thần khảo Mã Viện nam chinh, đến được Lãng Bạc quan quân chết gần nửa. Nhà Hán dựng Đồng Trụ làm giới hạn, gần với phủ Tư Minh ngày nay. 



Vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 [1407-1408] bình Giao Chỉ; năm sau Giản Định tiếm hiệu nỗi lên, đến năm thứ 8 [1410-1411] Trần Quí Khoách làm phản; rồi các thổ dân hưởng ứng theo, chỉ còn một thành Giao Châu an toàn! Năm thứ 11 [1413-1414] Trần Quí Khoách bị bắt, Trần Nguyệt Hồ lại làm phản; rồi năm Tuyên Đức thứ 2 Lê Lợi làm phản. Các quan văn võ của ta bị chết rất nhiều, như bọn Lưu Tử Phụ, Hà Trung, Dịch Tiên, Lý Nhiệm, Cố Phúc vv.. Quân sĩ, của cải vật chất tổn thất có đên mấy chục vạn; làm kiệt sức lực Trung Quốc hơn 10 năm, chỉ được cái tiếng thu phục được một số quận huyện trong mấy năm. Còn các triều đại khác, đánh mà không thắng như Tống Thái Tổ, Tống Thần Tông, Nguyên Thế Tổ, Hiến Tông thì quân đội chôn vùi, uy danh thương tổn. Các sự kiện kê ra như tấm gương sáng có thể soi, đó là điều thứ 4. 



Phàm Di Địch vào triều cống là có lợi cho họ; thứ nhất có uy với lân bang vì đã được ban lịch Chính Sóc [công nhận], có thể thông thương mậu dịch làm giàu cho đất nước. Bởi vậy An Nam tuy có loạn, vẫn mấy lần dâng biểu, mang phương vật gõ cửa quan xin triều cống. Các Trấn, Phủ tại biên giới cho rằng tên tuổi không đúng [9] , bèn đuổi đi. Vậy họ muốn cống mà không được, chứ không phải cậy hiểm không chịu tới. Bây giờ hài tội, về danh nghĩa không thuận, đó là điều thứ 5. 



Vả lại muốn mang binh đi đánh cần có tài lực dồi dào. Thời Vĩnh Lạc dùng binh 80 vạn, từ Vân Nam, Lưỡng Quảng chia đường đến; quân lương chất như núi, vận chuyển không ngớt. Nay nghị bàn lấy trong 4 tỉnh, nhưng Tứ Xuyên đang lo việc thu hoạch rừng, Quí Châu thì có quân ốm đói, lương trữ tại Lưỡng Quảng từ lâu bị hao hụt vì việc đánh Sầm Mãnh tại Điền Châu. Với những công trình dựng lên tại một số tỉnh, kho tàng thiếu hụt; lụt lội, hạn hán đói kém. Nhìn tài lực thì thời Vĩnh Lạc giàu có hơn nhiều; đó là điều thứ 6. 



Tất cả những điều nêu trên đều có căn cứ có thể dẫn ra được, nếu suy nghĩ xa như người nước Kỷ lo việc trời [10]thấy được nhà Đường suy từ thời Huyền Tông sau chiến dịch đánh Nam Chiếu; nước Tống suy vi từ khi Thần tông đánh Liêu. Nay kho tàng tích trữ chỉ 400 vạn [lạng bạc?] chính trị suy hoại, ruộng bỏ hoang ngày càng nhiều, quản lý muối ngăn trở, nên việc buôn bán càng giảm; giặc phương Bắc ngày một mạnh chiếm cứ vùng eo lớn sông Hoằng Hà, lính biên phòng mấy lần làm loạn, biên cương rào dậu triệt hồi; mối họa phương Bắc ngày một lớn; lại bắt đầu bàn bạc đến việc đánh phương Nam! Nếu có điều lo ngoài ý muốn, ai là người chịu trách nhiệm; đó là điều thứ bảy. 

Huống quan võ Cẩm y không hiểu đại thể, vạn nhất theo ý riêng, gây hấn. Hoặc tìm ra sự thực, đánh cũng không được, không đánh cũng không được; tiến thoái lưỡng nan. Nay nghiêm binh đợi xuất phát, lệnh mới ban ra mà sự tao nhiễu đã xẩy ra 4 phương; mối lo không tại tứ Di [11] mà tại trong nội bộ! 

Thần tấu xin bỏ việc chinh phạt, đình chỉ việc sai Cẩm Y vệ đi khám, bãi bỏ lệnh dự phòng binh lương. 

Sớ dâng lên, bộ binh khen bàn mưu trung thành; riêng chiếu chỉ truyền đợi Cẩm Y vệ khám tâu, rồi bàn sau. [12] 



Tiếp đến Minh Thực lục đề cập đến một phái đoàn cầu viện nhà Minh do vua Lê Trang Tông và Đại tướng quân Nguyễn Kim gửi sang Trung Quốc. Cầm đầu phái đoàn này là Trịnh Duy Liêu, vất vả đi theo đường Chiêm Thành, phải dừng lại tại nơi này đến 2 năm: 



Ngày 3 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 16 [13/3/1537] 



Cháu dòng đích của vua An Nam tên là Lê Ninh [Lê Trang Tông] sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô tâu rằng: 



“Vào năm Chính Đức thứ 11 [1516-1517] nghịch thần Trần Cảo làm loạn, giết vua là Lê Trừu [13] , người trong nước lập con trưởng của người anh đã mất là Huệ [vua Chiêu Tông], lên trông coi việc nước. Vào năm thứ 16 [1521-1522] Huệ đánh Trần Cảo giết được. Kẻ bầy tôi là Mạc Đăng Dung mưu loạn, đuổi vua [Chiêu Tông] ra ngoài, lập người em thứ còn thơ ấu là Quảng [Cung Hoàng] làm bù nhìn coi nước. Rồi giết Quảng, ngụy lập người con, và tự xưng là Thiên vương. Vì lý do này nên đường lối ngăn trở, Cống sứ không thông; Huệ vì vậy buồn giận phát bệnh chết, người trong nước lập Ninh là cháu dòng đích quyền coi việc nước. Ninh là con của Huệ, mấy lần cho người đưa thư đến Tổng trấn cáo nạn, đều bị Đăng Dung ngăn giết trên đường đi, nên không đến được. Mới đây nhân nhờ thuyền buôn Quảng Đông, bèn ngầm theo đến kinh đô, xin hưng binh hỏi tội để cứu ngay nạn nước.” 



Lời tâu đưa xuống bộ Lễ, nhận phúc tấu như sau: 



“Sứ chính thức tin cậy từ An Nam không thông đã hơn 20 năm, nay triều đình mới định hưng binh hỏi tội, thì lời cáo biến từ nước này đến. Sự việc thuộc khả nghi, vả lại bọn Liêu theo thuyền đi, lại trú thêm tại Chiêm Thành 2 năm, đến Quảng Đông lại không trình “Thân phó cáo” [14] ; tuy có quan ty sở tại cấp văn thư đưa đi cũng khó mà tin được. Nay nên tạm thời cho bọn Liêu lưu tại sứ quán; lệnh Cẩm Y vệ đã sai đi, phúc trình sự việc tại nước này, cấp tốc tâu lên để đợi khu xử.” 



Thiên tử theo lời bàn của bộ, ra chiếu lệnh Cẩm y vệ câu lưu bọn Trịnh Duy Liêu, không được tiếp xúc với bên ngoài. Theo lệ đối xử giống với trường hợp Cống sứ Triều Tiên, do Quang lộc tự cung cấp. [15] 



Dựa theo những lời tố cáo của Trịnh Duy Liêu, đình thần nhà Minh hội họp, dưới sự chủ trì của bộ Lễ và bộ Binh, tuyên bố kết tội Mạc Đăng Dung gồm10 điều: 



Ngày 12 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [20/5/1537] 



Hai bộ Lễ và Binh hội họp đình thần bàn về việc chinh thảo An Nam tuyên bố rằng Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể khoan dung mà không đánh: 



Tội thứ nhất: đuổi Lê Huệ [vua Lê Chiêu Tông], chiếm thành đô của nước. 

Tội thứ hai: cưỡng bách lấy mẹ của vua. 

Tội thứ ba: đầu độc Lê Quảng [vua Lê Cung Hoàng], đem con y lên làm vua ngụy. 

Tội thứ tư: Bức Lê Ninh phải bỏ trốn. 

Tội thứ năm: tiếm xưng Thái thượng Hoàng đế. 

Tội thứ sáu: cải nguyên Minh Đức Đại Chính. 

Tội thứ bảy: đặt binh tại quan ải, ngăn trở chống cự Sứ thần. 

Tội thứ tám: bạo ngược vô đạo, độc hại sinh linh. 

Tội thứ chín: Ngăn dứt đường đi cống. 

Tội thứ mười: đặt quan lại ngụy. 



Xin ban bố quyết định, truyền bá trong ngoài, khiển tướng luyện binh, định ngày tiến đánh. Bọn Trịnh Duy Liêu được đưa theo quân môn, để quan Tổng binh tham khảo sử dụng.” 



Thiên tử phán: 



“An Nam từ lâu không đến cống tại sân đình, theo phép đáng hỏi tội. Nay nước này tâu rằng nghịch thần Mạc Đăng Dung soán đoạt, ngăn trở đường đi cống, lại tiếm xưng danh hiệu, đặt quan lại ngụy, tội ác đã rõ ràng, mệnh tướng xuất sư chinh thảo. Các quan Tổng đốc đề cử tuyển chọn những người có tài năng để sử dụng, điều động binh lương thích hợp. Hai bộ Hộ và Binh bàn định cách xử trí rồi tâu lên...” [16] 



Tuy ra lệnh đánh nước ta, nhưng nhà vua đã bị ảnh hưởng bởi lời khuyến cáo trong bản điều trần của Đường Trụ, nên muốn hoạch định một cuộc chiến hạn chế để khỏi bị sa lầy như dưới thời Minh Tuyên Tông: 



Ngày 13 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [21/5/1537] 



Thiên tử lại dụ bộ Binh rằng: 



“Ngày nay có việc tại An Nam, giúp nước này trừ loạn, so với thời Thái Tông sự thể không giống nhau; nên dụng binh như thế nào, hãy suy nghĩ rồi tâu trình.” 



Bộ binh trình 11 điều: 



“1. Xin Thiên tử ban ấn cho Đại tướng quân; cấp cho văn võ Đại thần chế sắc, phù nghiệm, kỳ bài. 

2. Bắc quân không tiện Nam chinh. Nên điều Hán binh tại Lưỡng Quảng, Tứ Xuyên, Quí Châu, Hồ Quảng, Phúc Kiến; cùng Thổ binh như Miêu, chuyên sử dụng câu liêm. Tổng binh, Tham tướng tùy nghi điều động; nghiêm quân lệnh, cấm chỉ tham hàng hóa [17] , giết hàng binh. 

3. Việc binh tiến hay dừng đều tuân lệnh Tổng đốc, Tham tán, mà thi hành. Các Phó Tham, Tam Ty trở xuống đều được ủy nhiệm sử dụng. 

4. Sai Khoa Đạo quan mỗi nơi 2 viên để ghi chép công và thứ hạng. 

5. Thống lĩnh quan binh Hán, Thổ cần khéo chỉ huy, khuyến khích thành công. Bán, đổi, thả giặc hoặc tiềm thông gian tế, tội không tha. 

6. Các xứ Khâm Châu, Tư Minh, Bằng Tường thuộc Lưỡng Quảng, Lâm An, Mông Tự thuộc Vân Nam; có thể dùng đường để tiến binh; hãy chọn những người hiểu dân địa phương làm hướng đạo. 

7. Ngày tiến binh, giữ kỹ các quan ải để đề phòng kẻ chạy trốn. 

8. Khi lâm trận, kẻ lập thành tích giết bắt cừ khôi được thưởng hoặc thăng cấp; kẻ trái lệnh chần chừ dòm ngó, xử theo quân pháp. 

9. Phàm những nơi quan quân sắp đi qua, vật dụng khí cụ lệnh quan địa phương chuẩn bị. 

10. Các cấp Tuần, Phủ kiểm tra việc chinh tiến, khao thưởng, tướng sĩ được lệnh hậu đãi. 

11. Các đồ ban thưởng như ngân bài, huy chương, lụa trao cho Tổng binh, Tham tướng trước; để sẵn sàng lúc dùng.”



Chiếu chấp nhận như đề nghị. Lại mệnh Binh Khoa Cấp sự trung Lý Hạc Minh, Phúc Kiến Ngự sử Truyền Phượng Cao đến Quảng Đông; Hình Khoa Cấp sự trung Mã Nhữ Chương, Quảng Đông đạo Ngự sử Hồ Thời Tế đến Vân Nam; mỗi người theo quân để ghi công. [18] 



Trong khi bộ máy chiến tranh đang rục rịch làm việc, thì chính viên Thị lang bộ Binh Phan Trân (tương đương với Thứ trưởng Bộ Quốc phòng hiện nay), không tin ở sự thành công. Y cũng đem những kinh nghiệm lịch sử ra cảnh cáo, và đề nghị số quân điều đến biên giới chỉ nên thay phiên luyện tập, án binh bất động để chờ thời. Chắc không phải hoàn toàn phản đối lập luận của viên này, nhưng có lẽ tại viên Thị lang bộ Binh là người trong cuộc, lại viết những lời chống lại chính sách, nên bị nhà vua phạt cho thôi việc: 



Ngày 13 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [21/5/1537] 



Tả Thị lang bộ Binh Phan Trân dâng sớ rằng: 



“Đất An Nam xưa thuộc Giao Chỉ, nhiều đời không chịu xưng thần; lúc vua Thái Tổ ta mới mở nước, chúa họ Trần nước này đầu tiên đến qui phụ, được chấp nhận để chiêu phủ. Vào năm Vĩnh Lạc Lê Quí Ly phản họ Trần, vua Thái Tông mang nghĩa binh đánh dẹp, cầu con cháu nhà Trần nhưng không được, bèn chia đất này thành quận huyện. Rồi tiếp tục có đảng nghịch của Giản Định Đế nổi loạn, đánh mấy năm bình định được. Sau đó Lê Lợi dấy lên chống mệnh. Sau khi Lợi xin lập con cháu nhà Trần, vua Tuyên Tông Chương Anh Đế bèn bỏ đất này, Lê Lợi nhân được thay thế làm Vương. Đời sau Lê Trừu [vua Tương Dực] làm sai đường, bị Trần Cảo giết, không có con nên con người anh là Lê Huệ [vua Chiêu Tông] không đợi mệnh triều đình mà tự lập; bị Mạc Đăng Dung bức phải trốn xa. Dung bèn uy hiếp lập người em là Lê Quảng [vua Cung Hoàng], rồi giết đi mà chiếm lấy nước. Vậy cha con họ Mạc và Trần Cảo là bọn giặc thí nghịch; còn Lê Ninh và cha là Lê Huệ không cầu phong và triều cống đã 20 năm nay; chiếu theo phép Xuân Thu [19] không khỏi phải mang 6 quân đi hỏi tội. Nhưng hà tất phải mang binh đánh cả hai bên. 



Vả lại đất này không đủ tiêu chuẩn để đặt quận huyện, lúc loạn lúc theo không giống như Trung Quốc; dân Di ngày càng sinh sôi, lều trướng từ đông sang tây có đến vạn lý; lửa báo động từ mùa đông đến mùa xuân không ngày nàongớt. Phía ta quân sĩ không sung túc, lương thực không đủ, các biên giới đều có mối lo ngầm; nay bỏ những mối lo trước mắt, để gánh sự tổn hại làm kiệt sinh lực ở nơi xa xăm. Kẻ bầy tôi ngu muội này cho rằng không phải là kế sách đúng. 



Nay không nên điều Phó Tổng binh, Tham tướng trở xuống, cùng Tổng đốc lương thực, văn thần; cũng không nên điều động ngay lính Miêu chuyên sử dụng câu liêm, và các đơn vị vận tải [20] . Nên cẩn thận cử 2 viên Đại thần văn, võ có tài và uy tín, đeo ấn mệnh chinh thảo; đến biên giới Giao Chỉ và Lưỡng Quảng, để điều động các quân Hán, Thổ gần đó thay phiên luyện tập. Riêng các đơn vị nhỏ cùng với Thổ binh thì cho huấn luyện tại địa phương chuẩn bị đợi đi đánh. 



Sau đó truyền hịch đến Giao Chỉ phía nam, hài tội họ Mạc soán nghịch, tru diệt không tha; kỳ dư những người bị cưỡng bách theo nếu qui thuận, gắng sức đánh giặc lập công sẽ được tưởng thưởng. Lại truyền hịch cho Lê Ninh ban cho y quyền đánh giặc họ Mạc, lệnh đốc thúc binh mã đợi khi đại quân nhập cảnh, hợp lực tiến đánh. Bọn Vũ Nghiêm Uy [21] cũng được dụ giúp cho Ninh. Khiến mọi người trong nước đó hợp mưu đánh giặc, mượn tiếng Thiên triều làm mạnh khí thế, công việc bình định có thể hoàn thành được. 



Thiên tử giáng chỉ trách là không rành sự thể, có những lời mê hoặc nhân tâm. Bi lột chức và thôi việc. [22] 



Tuy nhà Minh muốn can thiệp, nhưng tình trạng nước ta lúc bấy giờ có hai phe: Lê Trang Tông và Mạc Đăng Dung. Phe bảo thủ chủ trương bảo hoàng lẽ dĩ nhiên phải ủng hộ Lê Trang Tông. Nhưng ngược lại Đề đốc Lưỡng Quảng Tả Thị Lang Phan Đán, đóng quân sát tại biên giới, hiểu rõ thực lực của mỗi bên; hơn nữa y là con người thực dụng, thấy Mạc Đăng Dung mới cho người xin sang cống, nên nghiêng về sự ủng hộ họ Mạc, để khỏi phải đánh nhau: 



Ngày 19 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 16 [27/5/1537] 



Đề đốc Lưỡng Quảng quân vụ Tả Thị lang bộ Binh Phan Đán tâu: 



“Loạn An Nam bắt đầu từ Trần Cảo giết chúa Lê Trừu, Cảo bị giết nhưng con là Thăng chiếm cứ đất Lạng Sơn. Mạc Đăng Dung lúc đầu cưỡng lập Lê Huệ, tiếp lại đuổi ra biển, rồi Huệ đóng tại Thanh đô; cuối cùng [Đăng Dung] giả danh được nhường chức, để đoạt lấy nước. Nay Trần Thăng đã bị Mạc Đăng Dung đánh dẹp; phần lớn đất đai cương thổ, họ Lê chỉ chiếm được hai phần mười; họ Mạc chiếm đến tám phần mười. Mới đây triều đình sai sứ hỏi tội, Đăng Dung sai Sứ mang văn thư xin cống. 



Phàm Di Địch như cầm thú, vốn không có luật của nhân luân; dùng pháp độ của Trung Quốc không thích hợp. Nếu xử theo đạo lý của Di Địch thì Nguyên Ngô được ban tước, Hạ Nghĩa được phong Hầu, Lê Lợi cũng có thể làm vua! Bọn chúng phân tranh, binh cách không ngớt, đều muốn mượn danh hiệu Thiên triều để lên làm chúa. 



Kính mong Bệ hạ sắc xuống cho hai bộ Lễ và Binh phúc trình giải pháp hay nhất; riêng bọn thần giới nghiêm quân sĩ xem sự biến, để đợi nước đó tự ổn định, đó là phép của Đế Vương xưa dùng bất trị để trị.” 



Lúc này Thượng thư bộ Lễ Nghiêm Tung, Thượng thư bộ Binh Trương Tán phúc tấu rằng: 



“ An Nam là nước hoang dã nơi biên giới, xưng thần chăm chỉ phụng cống; so với bắc Địch, tây Nhung cũng tương tự. Mạc Đăng Dung đuổi vua giết chúa, chuyên chế chiếm nước, tình tội rõ ràng, vả lại An Nam là nước nhận sắc phong của tổ tiên. Sao Quảng có thể tự tiện trao cho nghịch Dung; sao nghịch Dung có thể tự tiện nhận từ Quảng. Nếu bảo nước Di Địch vốn không có nhân luân, Nguyên Ngô có thể làm Vương, Hạ Nghĩa có thể làm Hầu, lại như nghịch Dung giết vua đoạt nước, nay dâng biểu xin thỉnh phong, quốc gia lấy gì để xử đây? 



Nếu bảo rằng cho hai bên đánh nhau, binh cách không tắt, để vậy không hỏi đến, thì không khỏi giúp loạn lớn lên, buông thả cho bọn gian tà, lại không đáp ứng lời cầu cứu của Lê Ninh. Nay nêu hai việc Tử Mật, Nguyên Ngô làm chứng, lập luận không hợp lý, không có thể khuất phục bọn Di gian trá, và giữ gìn quốc thể. Vả lại Lê Ninh còn tại Thanh Đô, sai người đến cáo biến, chí mưu đồ khôi phục. Nay Đăng Dung lại xưng bản quốc đã ổn định, dâng biểu xin cống, thật che dấu quá lắm! Vào năm Hồng Vũ có lần An Nam sai Sứ đến cống Thái Tổ Cao Hoàng đế phán: “An Nam soán giết vua [23] , không chấp thuận cho đến cống.” Nay nghịch Dung đến xin cống, khó mà có thể bằng lòng ngay được nên giao Đề đốc, Tuần vũ, Tổng binh xét kỹ nghịch thuận, theo thời cơ mà phủ ngự, tuân theo chiếu chỉ trước mà thi hành để chính sách phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt, tru lục kẻ tàn bạo; hai đường vẹn toàn.” 



Sớ dâng lên, Thiên tử chấp nhận, mệnh Đề Đốc các quan thi hành theo chiếu chỉ trước. [24] 



Một người có thái độ uyển chuyển, dung hòa được mọi khuynh hướng là Hữu Đô Ngự sử Mao Bá Ôn, lúc này đang chịu tang, được nhà vua vời ra để lo giải quyết việc An Nam. Viên này chủ trương cô lập Mạc Đăng Dung, tập trung binh lực mạnh tại biên giới, để buộc Đăng Dung phải đầu hàng: 



Ngày 9 tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 16 [16/6/1537] 



Hữu Đô Ngự sử Mao Bá Ôn trở lại làm việc, đến trình diện tại kinh sư; Thiên tử mệnh trong ngày đến nhận việc, để đợi mệnh chinh thảo An Nam. Bá Ôn điều trần việc An Nam gồm 6 điều: 



Thứ nhất: Chính danh An Nam không đến triều cống là do Mạc Đăng Dung thoán nghịch; nay mệnh tướng xuất sư đánh giặc. Trước tiên truyền hịch dụ rõ những người bị ức hiếp theo, cho được đầu hàng; kẻ chém đầu giặc được thăng thưởng. Nếu đầu sỏ giặc đến hàng, bọn thần cẩn thận tâu lên xin khu xử, để không bị tội chếtr. Nếu như hôn mê không tỉnh ngộ, thì bị diệt trừ không tha. 



Thứ hai: Sử dụng lính gồm Điền Châu, các thành Tư, Ân, Tứ; các xứ Tả, Hữu giang thuộc Quảng Tây; Vĩnh Thuận, Bảo Nha thuộc Hồ Quảng; Tây Dương thuộc Tứ Xuyên, Thổ binh kiêu dõng có thể dùng được. Sợ có sự xâm nhiễu tại các địa phương đi qua, sức các Trấn thủ, Tuần quan nghiêm lệnh cấm chỉ. Tổng đốc, Đô Ngự sử Lưỡng Quảng trách nhiệm rất lớn, nên dùng những bầy tôi giỏi để lo giúp. Thổ binh Vân Nam tại các phủ, cần có ấn bài của Kiềm Quốc công mới có thể điều dụng. Sau khi di chuyển trách nhiệm chỉ huy điều động do Phó Tổng binh, Bố chánh, Tuần phủ, Đô Ngự sử phụ tá. Các đơn vị tại Quảng Đông, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến không nên điều động tất cả; Thần cần trích những đơn vị cần thiết đưa đi. Tổng binh Quí Châu Lý Chương; Phó Tổng binh Quảng Tây Trương Kinh, Tham tướng Trầm Hy Nghi đều mưu dõng hơn người, nên dùng. Từ Quảng Tây do châu Bằng Tường vào biên giới, qua quan ải đầu Kinh Bốc, Lân trạm, Bộc Thượng trạm, tới sông Phú Lương, tức Đông Quan. Quảng Đông từ châu Khâm, qua một ngày tới Vĩnh An. Vân Nam do đường huyện Mông Tự, qua 2 ngày có thể đến thác Liên Hoa bằng 3 đường. Đến ngày cùng tiến, hẹn đúng ngày đến nơi. Đánh giặc chớ giết càn; ngày nay tướng sĩ vào An Nam trước, đánh chém đầu sỏ giặc lập kỳ công; nếu cố tình buông thả giặc hoặc giết bừa bãi người vô tội, lấy quân pháp trừng trị. Việc luận công thưởng phạt nên sắc cho bộ Binh dự định



Thứ ba: Dùng người. Xin sắc bộ Binh cử những bộ thuộc tài cán theo quân: gồm 2 người chuyên vẽ; một số quan phụ trách kỳ bài, tùy viên, thiên văn, âm dương, thông dịch, y sĩ, bói toán. Các tỉnh, 3 ty, cùng phủ, châu, huyện ; các chánh quan và phụ tá đều dưới quyền Thần lâm thời sử dụng. 



Thứ tư: Về phương diện tài vật; xin sắc bộ Hộ lệnh Bố chánh các tỉnh phàm các vật tư phải nạp về kinh mà chưa kịp đưa đi, thì Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây, Lưỡng Quảng chở về phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây; Quí Châu, Hồ Quảng, Tứ Xuyên chở về phủ Lâm An, Vân Nam. Quan coi về lương thực tại các tỉnh chờ lúa mùa thu chín, mua trữ vào kho. Số lượng quân lương mà Giang Tây, Hồ Quảng dự định mang đi trong năm Gia Tĩnh thứ 16 thì sửa đổi nơi đến, cho vận chuyển đến phủ Nam Ninh. Cần kiểm tra việc nạp lúa, mở kho muối tại Lưỡng Hoài, phát bạc nén tại kho Thái Thương 400 vạn để có thể đủ cho sự chu cấp trước mắt. 



Thứ năm: Về minh bạch phép thưởng phạt, thành ngữ có câu “Thưởng đến kịp thời, phạt đến đúng lúc.” Phép thưởng trong quân, nhỏ thì thưởng bằng tiền lụa, lớn thì quan tước. Nên sắc hai bộ Lại, Binh đưa sẵn số lượng các chức quan văn võ đến nơi giao cho Thần, để thưởng trong quân hoặc cử làm quan hoặc thăng thưởng. Còn như có tội thì xét nặng nhẹ, không tha. 



Thứ sáu: Đồng nhất. Nay 3 đường cùng tiến công; quan lại tướng sĩ số lượng nhiều, nếu hiệu lệnh bất nhất làm sao có thể thành công được. Các văn thư phải truyền đạt đến từng nơi, mọi người cần đồng tâm hiệp lực, dù công nhỏ cũng ghi chép; không được chia rẽ kẻ này kẻ kia, mỗi người cố chấp với ý kiến mình, làm lộ quân cơ; kẻ làm trái lệnh Thần xin tâu lên trên. 



Thiên tử nói: “ Xem tấu của khanh thấy rõ được sự từng trải; y theo điều nghĩ mà thi hành. Sẽ đưa Đề đốc Lưỡng Quảng Thị lang Phan Đán về Nam Kinh để phụ tá cho bộ; điều ngay một người có tài hiểu biết, thích hợp với nhiệm vụ thay thế.” 



Bộ Binh phúc tấu về lời thỉnh cầu của Bá Ôn: “Xin một đạo sắc phong Bá Ôn và tuyên bố triều đình ân uy, cùng ban hành dụ cho nước này. Ban thưởng cho bất cứ ai lập kỳ công, dẫn đầu phá quốc thành An Nam, thưởng bạc 3.000 lượng, thăng 5 cấp; bắt hoặc giết đầu sỏ giặc, cha con Mạc Đăng Dung cũng được thưởng như vậy. Ai bắt hoặc giết bọn giặc có tiếng, được thưởng 500 lạng và thăng 3 cấp. Lâm trận phấn dõng lập thành tích đáng khen, sẽ theo lời của Tổng đốc, Tham tán thưởng một cách đích đáng. Người An Nam nội phụ có công, cũng được thưởng như vậy. Xin bộ Lại chọn 2 quan chức có tài năng theo quân để điền bổ các chức vụ. Về vận chuyển lương thực, bộ Hộ cử nhân viên theo quân để tùy nhu cầu hoạch định vận chuyển. Bộ Lại chuẩn bị giấy bổ nhiệm văn chức và võ chức mỗi thứ 100 bản, dùng để thăng thưởng trong quân. Tổng đốc, Tham tán các chức, dùng binh ngoài quan ải, tiến hoặc dừng theo tiện nghi. Trừ Lưỡng Quảng, Vân Nam Tổng binh, Tổng đốc, khi có việc cùng bàn bạc mà thi hành; kỳ dư Phó, Tham trở xuống, cùng Phủ Trấn, ba ty đều theo sự tiết chế. Các quan tam ty trở xuống phải nghe theo lệnh, khi ủy nhiệm không được từ chối. 



Thiên tử phán: “An Nam từ lâu không đến triều cống, vì nghĩa đáng hưng binh hỏi tội. Gần đây nghe Lê Ninh tâu rằng Mạc Đăng Dung ngăn chặn đường tiến cống, chưa thẩm tra được chân ngụy; hãy lệnh cho quan địa phương xem nên chiêu phủ, hay đánh. Đề đốc Lưỡng Quảng, Thị lang Tuần phủ Vân Nam, Đô Ngự sử, cùng các quan Tổng binh đều có sắc riêng. Lệnh Mao Bá Ôn tại viện lo quản lý công việc. Các quan đôn đốc lương hướng, ghi công đều tạm đình chỉ.”[25] 



Lúc này trong đầu óc nhà vua Thế Tông và Mao Bá Ôn đã sẵn có một dự định, nên nhà vua thẳng tay trách phạt người khác ý kiến: 



Ngày 27 tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 16 [4/7/1537] 



Giám sát Ngự sử đạo Hồ Quảng Từ Cửu Cao theo lời chiếu, trình bày 3 việc: 

 

3. Bàn về việc đi đánh: Gần đây Quốc vương An Nam bị tặc thần đuổi; Bệ hạ hưng binh hỏi tội đến biên giới, đó là điều không tốt. Hiện nay Vân, Quý, Lưỡng Quảng lương thực thiếu thốn, các vùng đông nam mất mùa vì đại hạn, lụt lội. Thần xin tạm hoãn sai quân đi trước; Tổng đốc Lưỡng Quảng, Đô ngự sử, Tổng binh nên chia nhau sắp xếp thi hành, lệnh sở tại tích trữ lương thực, quan sát sự biến động. Nếu chúng sửa đổi thuận tòng, có thể không phiền đến binh. Trường hợp chúng ương ngạnh, đợi binh lực đầy đủ, từ từ làm việc thảo phạtr. Nên sắc 2 bộ Binh và Hộ chú ý đề phòng các trấn phía tây bắc; phàm quân lính thiếu, đồn ải phế hủy, lương thực thiếu hụt; hãy lo liệu lý để khôi phục việc làm tốt của tổ tông, thực hành kế trường cửu của quốc gia… 



Thiên tử cho rằng nội dung có sự dối trá, tội trọng bất kính, dùng lời nhục mạ, cắt bổng Từ Cửu Cao 2 tháng. [26] 



Để chuẩn bị cho vấn đề An Nam, vua Thế Tông ra lệnh cho các quan tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam được miễn dự lễ tại triều: 



Ngày 30 tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 6 [5/8/1537] 



Cho 3 Bố chánh Sứ ty Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam; chánh quan tại hai phủ Nam Ninh, Thái Bình thuộc Quảng Tây; cùng các phủ Khúc Tĩnh, Sơ Hùng, Lâm An, Đại Lý, Vĩnh Xương thuộc Vân Nam được miễn dự lễ tại triều vì công việc về An Nam. Thể theo lời tâu xin của các quan Đốc, Phủ. [27] 



Lại cho đình chỉ nạp về kinh đô số bạc thu thuế, tồn kho tại các tỉnh biên giới: 



Ngày 21 tháng 8 năm Gia Tĩnh thứ 16 [24/9/1537] 



Vương Tuấn, Đề đốc Đô ngự sử Nam Cống Định Chương tâu rằng: “Trước đây quyết định đem về kinh số bạc nén đánh thuế muối. Nay vì có việc chinh thảo tại An Nam, xin giữ lại tất cả số bạc đó.” [28] 



Nhắm cô lập Mạc Đăng Dung, nên những thành phần chống đối nhà Mạc được vua Thế Tông ra lệnh khen thưởng, khuyến khích: 



Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 [9/10/1537] 



Trước đó người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng; Đô ngự sử Uông Văn Thịnh sai Chỉ huy Triệu Quang Tổ đến phủ dụ. Văn Uyên bèn sai người Di bọn Nguyễn Hoằng Qui đến hiến bản đồ tiến binh, nhân nói về tình trạng loạn lạc tại An Nam rằng Văn Uyên vốn là bầy tôi của nhà Lê, do loạn Đăng Dung nên ra đóng quân tại Tuyên Quang, cựu thần nhà Lê như Nguyễn Nhân Liên, Lê Kinh My, mỗi người chiếm đóng mỗi phương, đánh nhau với Đăng Dung. Văn Uyên có 10.000 quân, đợi Thiên binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Lang để nhập theo, rồi hiệu triệu người trong nước, thế có thể dẹp Đăng Dung được. Văn Thịnh xin ban cho Văn Uyên quan và cấp sắc dụ để tiện liệu việc. Bộ Binh nói: 



“ Thực tình hay ngụy trá chưa lường được; tuy muốn gia ân nhiều, nhưng cũng nên xét thực tế sự việc để liệu cấp thưởng.” 



Thiên tử phán: 



“ Văn Uyên khuynh tâm quy phụ, mộ điều phải thực đáng khen, ban cho y khăn, dây đai, chương phục quan võ tứ phẩm, và bạch kim, tiền. Bọn Tử Lăng được ban mũ, dây đai; còn bọn Triệu Quang Tổ được ban tiền. [29] 



Lúc này viên Tuần Án Quảng Đông thấy được tình hình, dâng sớ xin tự ý làm lấy cái việc ép Mạc Đăng Dung triều cống; nhưng vua Thế Tông và quần thần cho rằng lập luận có vẻ khinh suất, nên phạt viên này bằng cách đoạt lương một năm: 



Ngày 6 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 16 [8/11/1537] 



Tuần Án Quảng đông Ngự sử Dư Quang dâng lời tâu: 



“Việc An Nam không cướp được thời cơ nên mưu không hay, không thừa đúng thế nên không đạt được thành công. Xưa kia Câu Tiễn mưu diệt Ngô âm thầm trong hai chục năm mới phát lộ công khai, đó là dùng trì hoãn để mưu đồ, Đổng Tấn đánh Biện chỉ một buổi sáng thì bình định, là dùng nhanh để chế thắng. Thần mới đây tại kinh đô nghe việc An Nam được mô tả có 3 phe; như chuyện ngụ ngôn cò trai lo tranh dành để cuối cùng ngư ông hưởng lợi! Nay đến biên giới hội bàn với tam ty, thấy được sự thực không phải như vây. Vì hiện nay Mạc Đăng Dung có toàn thể đất đai, các Tù trưởng đều bị thu phục. Lê Ninh thì chạy trốn không biết hiện ở đâu. Họ Lê giết vua, đối với họ Trần là giặc; lúc hàng lúc chống, đối triều đình ta là kẻ đứng đầu tội; nay con cháu chạy trốn, hoặc giả trời sai Mạc Đăng Dung báo ứng vậy! Phàm Di Địch soán đoạt là sự thường; từ nhà Tống đến nay tại nước này từ họ Đinh chuyển sang Lý, rồi họ Lý bị soán đoạt bởi Trần, Trần lại bị soán bởi Lê, nay Mạc lại soán Lê; đó là đạo tuần hoàn vậy. Nếu ta khôi phục Lê thì chỉ là giúp một họ bạo ngược, thế khó mà trường cửu. Vận số của Di Địch nếu một lần bại vong khó phục hưng; thời thịnh vượng của Liêu, và Kim không phục hưng lại được; triều ta đặt Trung Tuấn lên làm Vương mà không chế ngự được dân Thổ Phồn. Dù rằng Trung Quốc phân cắt như Ngũ Quí, Lục Triều, cũng không trung hưng lại được; rồi đứng anh hùng trung hưng cứu vớt dân, phạt kẻ ác, nhận mệnh trời thảo phạt, thừa vận hội, mới hưởng được sự thống nhấtr. Nếu như nay đặt Lê Ninh lên, thì sau này ngôi cũng về tay người khác. Tại sao vậy, cây đã nghiêng ngả không trồng lại được, tro tàn không nhen lên được, đó là đạo trời vậy. Nay đối với An Nam nên hỏi tại sao không đến triều cống, nếu chúng phục tòng chịu xưng thần triều cống, thì trao chức cho; như vậy do thế mà định, không phải mệt binh lính. Nếu mang quân chinh tiễu, thì khó mà truy đuổi đến cùng, khó đồn trú lâu, quân đóng lâu dễ sinh biến, không thấy được sự tiện lợi. 



Thần dựa vào Hoàng thượng thánh minh, chính trị theo cổ nhân, cho thần ra biên cương an xã tắc, chịu hoàn toàn trách nhiệm. Mặt khác sai quan đến biên giới tuyên dương uy Thiên tử, hỏi tại sao không đến triều cống, bắt phải xưng thần nhập cống, và tâu ngay không chậm trễ. Phàm không xin mệnh, thì tội rõ ràng không tránh được; đợi trình báo lên thì chậm trễ, cơ hội dễ bị mất. Vả lại từ Quảng Đông đến kinh sư hơn 8.000 dặm, đến An Nam lại thêm 4.000 ngàn dặm; nếu đợi đi về trần tình rồi mới thi hành thì mất thời gian, không hợp với thời cơ. Phàm việc tại biên cương nhắm lợi triều đình thì làm, không nên sợ tội hoặc hiềm nghi; vì kẻ sợ tội thì không trung, hiềm nghi là không trực, thần không dám như vậy. Mong Thánh thiên tử từ nơi xa xôi soi cho, cho thần được tiện nghi hành sự.” 



Sớ dâng lên, Thiên tử phán: 



“Sự tình trong tờ tâu, cùng những lời dẫn dụng Ngũ Quí, Lục Triều, bộ Binh hãy tham duyệt rồi trình.” 



Bộ Binh phúc tấu rằng: 



“Trình bày không đích đáng, so sánh không hợp lý, hành động khinh hốt, nên trách phạt.” 



Mệnh đoạt lương 1 năm. [30] 






[1]An Nam Chí lược q. 2, tr. 52.
[2]Hồ Bạch Thảo, Phản ứng của nhà Thanh khi được tin vua Quang Trung mấtr. Talawas, 3/7/2007.
[3]Minh Thực lục v. 80, tr. 4066; Thế Tông q. 192, tr. 11b.
[4]Minh Thực lục v. 80, tr. 4070-4071; Thế Tông q. 193, tr. 1b 2a.
[5]Minh Thực lục v. 80, tr. 4083; Thế Tông q. 193, tr. 8a.
[6]Quân hướng: tiền lương và lương thực cho quân đội.
[7]Minh Thực lục v.80, 4083 4084; Thế Tông q. 193, tr.8a 8b.
[8]Khúc, Lưu, Thiệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, chỉ các đời họ nước ta lần lượt cầm quyền như: Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông; riêng Lưu, Thiệu, thì có lẽ nhầm với Dương Diên Nghệ, Kiều Công Tiễn chăng?
[9]Tên tuổi không đúng: vì lúc này tao loạn nước ta thay ngôi đổi chủ liên miên, nên tên vua mới không đúng với hồ sơ; nên bị nhà Minh bắt bẻ.
[10]Xưa có người nước Kỷ lo chuyện trời sụp, nên có thành ngữ “ Kỷ nhân ưu thiên” để chỉ người quá lo xa.
[11]Tứ Di: bốn Di; chỉ các nước ngoài tại 4 phương đông, tây, nam, bắc xung quanh Trung Quốc.
[12]Minh Thực lục v. 80, tr. 4115- 4117; Thế Tông q. 195, tr. 1a 2a.
[13]Theo Toàn thư (tập 3, trang 76) Lê Trừu tức vua Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giếtr.
[14]Thân phó cáo: tờ tự khai tại cửa khẩu lý do tại sao đến.
[15]Minh Thực lục v. 80, tr. 4156 4157; Thế Tông q. 197, tr. 1b 2a.
[16]Minh Thực lục v.80, tr. 4177-4179; Thế Tông q. 199, tr. 2a 3a.
[17]Hàng hóa: ý chỉ chiến lợi phẩm.
[18]Minh Thực lục v. 80, tr. 4180-4182; Thế Tông q.199, tr. 3a 4b.
[19]Kinh Xuân Thu là sử ký nước Lỗ, do Khổng Tử soạn ra.
[20]Xem văn bản ngày 11/5/1537 về 11 điều của bộ Binh.
[21]Xem chỉ dụ ngày 2/11/1535.
[22]Minh Thực lục v. 80, 4182-4184; Thế Tông q. 199,tr. 4b 5b.
[23]Chỉ việc Trần Đế Nghiễn bị phế năm 1387.
[24]Minh Thực lục v. 80, tr. 4186-4187; Thế Tông q. 199, tr. 6b 7b.
[25]Minh Thực lục v. 80, tr. 4194-4197; Thế Tông q. 200, tr. 1b 3a.
[26]Minh Thực lục v. 80, tr.4208-4210; Thế Tông q. 200, tr. 8b 9b.
[27]Minh Thực lục v. 80, tr. 4224; Thế Tông q.201, tr. 6b.
[28]Minh Thực lục v. 80, tr. 4255; Thế Tông q. 203, tr. 5a.
[29]Minh Thực lục v. 80, tr. 4262; Thế Tông q. 204, tr. 1b.
[30]Minh Thực lục v. 80, 4277-4279; Thế Tông q. 205, tr. 2a 3a.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế, các số 3(62) (tr. 109-122) & 4(63) (tr. 106-117), 2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12243&rb=0401

Để tìm thêm đồng minh trong cuộc chiến, Tuần phủ Vân Nam chiêu dụ các nước Lão Qua, Bát Bách Tức phụ cùng các Tù trưởng nơi biên giới hợp đồng đánh chiếm nước ta, với lời hứa chiếm đến nơi nào được cai trị địa phương đó: 


Ngày 23 tháng 10 năm Gia Tĩnh thứ 16 [25/11/1537] 



Tuần phủ Vân Nam bọn Uông Văn Thịnh tâu Thổ quan châu Quảng Lăng An Nam Đèo Lôi Chiêu, hiểu dụ bọn Tù trưởng Đèo Trinh ra hàng; xin được ban mũ, dây đai. Thổ xã Tuyên ủy ty Lão Qua Phạ Nhã nghe tin chinh thảo An Nam, hăng hái đầu tiên tình nguyện; vả lại nước này đất rộng người nhiều, An Nam sợ chúng, có thể cho đối địch riêng một phía. Mặt khác Thổ xã Bát Bách Tuyên ủy ty Đèo Lãm Na, Thổ xã Xa Lý Tuyên ủy ty Đèo Khảm gần với Lão qua; Thổ xã Mãnh Lương Đèo Giao tại thượng lưu Lão Qua đều nhiều lính, voi; sẵn sàng việc chinh thảo. Xin miễn việc tra khám, ra lệnh cho họ tề tựu tại địa phương; nên ra lệnh Lão Qua trú binh tại Mộc Châu để đợi tiến binh; bọn họ chiếm được địa phương nào, cho cai quản. 



Chiếu thư ban: “ Có thể chấp nhận lời tâu.” [1] 



Lúc này cha con Mạc Đăng Dung, Mạc Phương Doanh cảm thấy không thể ngồi yên được nữa; bèn sai Sứ giả Phạm Chính Nghị dâng biểu xin hàng, xin được triều cống, riêng địa đồ thì nại cớ có thể tham khảo sách “Nhất thống Chế ” nên chưa chịu nạp. Vua Thế Tông sau khi tham khảo với bộ Binh, cho rằng mọi lực lượng tại ba tỉnh sát biên giới lúc này cần được thống nhất chỉ huy, nên ra lệnh Hàm Ninh Hầu Cừu Loan làm Tổng đốc việc quân, Thượng thư bộ Công Mao Bá Ôn giữ chức Tham tán: 



Ngày 24 tháng 3 năm GiaTĩnh thứ 17 [22/4/1538] 



Trước đây qua những lời tâu về Lê Ninh, nên tạm hoãn việc chinh phạt An Nam. Chiếu mệnh các Đốc Phủ Vân Nam, Lưỡng Quảng khám xét đích xác tình hình người Di, để xem nên chiêu dụ hay chinh phạtr. Nay Tuần phủ Vân Nam Đô ngự sử Uông Văn Thịnh truyền lệnh cho các Thổ quan, Hào mục An Nam nếu đến qui thuận trước, được ban cho chức tước truyền đời. Lệnh bọn Vũ Văn Uyên báo cựu thần nhà Lê, mọi người hưng binh phấn đấu. Lại dụ Mạc Đăng Dung tự trói mình qui thuận, nạp bản đồ cùng sổ hộ tịch, sẽ không bị tội chết. Lúc đó các Thổ quan, Hào mục An Nam như Trần Tông, Hoàng Công Cán, cùng các Thổ quan tại biên giới như Thủ lãnh Đào Tiên tại châu Thúy Vĩ và những người khác đều tình nguyện nội phụ. Vũ Văn Uyên đánh thắng Mạc Đăng Dung, chiếm được cửa quan ải cùng doanh trại. Lúc này con của Đăng Dung là Phương Doanh [Sử Việt ghi Đăng Doanh] đã lên thay thế Đăng Dung coi việc nước, mang binh đánh Văn Uyên nhưng không thắng. Thịnh cho rằng thác Liên Hoa thuộc huyện Mông Tự, đất này xung yếu, đường bộ đường thủy nối liền giữa Quảng Tây và An Nam nên đặt trại dựng doanh; đưa binh vào trong nội địa giặc để gây thanh thế cho những người qui chánh. 



Phương Doanh sợ, bèn sai Đầu mục bọn Phạm Chính Nghi dâng biểu xin hàng, và gửi điệp văn cho các quan Phủ, Trấn như Mộc Triều Phụ, kể đầy đủ việc nhà Lê suy loạn, Trần Cảo phản nghịch, riêng cha con y có công nên được người trong nước theo. Lại nói rằng về địa đồ có thể xem trong Nhất thống Chế. Xin được tha tội, cho theo lệ vào triều cống, lại xin cống bù thêm những năm không đến triều. Nhân kể rằng Lê Ninh là con cháu dòng họ Nguyễn, mang ấn giả, không đủ làm bằng. 



Bọn Triều Phụ dâng biểu văn xin tha cho Phương Doanh, cho làm phiên thần; không được gây hấn với Lê Ninh và Vũ Văn Uyên, trả lại đất ở biên giới đã xâm lấn trước kia. Lại xin rút quân ra khỏi thác Liên Hoa, thăng thưởng cho các quan quân có công tại đấy. 



Cùng lúc Triều Phụ lại báo Lê Ninh đã nhận được hịch văn gửi trước đó, tường trình việc [họ Mạc] soán đoạt và giết vua; xa giá lánh nạn; cùng cung cấp tin tức về số binh mã thủy bộ, trình bày con đường tiến quân. 



Chiếu thư phán đưa nội vụ xuống bộ Binh tập hợp phủ, bộ các quan hội bàn; rồi tâu rằng: 



“Cha con Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua, bạo ngược với dân, tội không tha được; nay xin hàng nhưng vẫn ở trong nước không chịu dâng bản đồ; giả bộ muốn xin tha, nhưng ý đồ mong hoãn binh. Những điều Triệu Phụ xin khôngnên vội hứa. Vả lại Đế Vương dẹp loạn, nhân nghĩa kiêm toàn; nêu đích đáng kẻ giặc với tội trạng rõ ràng, hợp với lòng mong muốn của dân chúng, khó khăn nào không vượt qua. Vả lại tuy là nước Di, nhưng há lại không có trung thần, cùng với Thổ quan của ta ở vùng phụ cận, ai mà không hăng hái ủng hộ điều phải. Uy trời đến nơi, cha con kẻ nghịch sẽ bị tiêu diệt! 



Nhưng đất này giáp với 3 tỉnh của ta, các quan Đốc, Trấn quyền ngang nhau, thế lực chia rẽ, ý kiến bất đồng không khỏi khiên chế lẫn nhau; cần tổng chỉ huy bởi quan văn võ, ngõ hầu thống nhất điều động, thành công mau chóng. Vậy xin suy cử Hàm ninh hầu Cừu Loan, Thượng thư bộ Công Đề đốc công trình Mao Bá Ôn nhận chức Tổng đốc Tham tán trông coi 6 quân, hứa được tiện nghi hành sự.” 



Được chiếu chỉ phán: 



“Chấp nhận thi hành theo lời bàn.” [2] 



Tuy nhiên viên Đề đốc Lưỡng Quảng Thị lang bộ Binh Thái Kinh lại dâng lời tấu ước tính số quân cần dùng và lương thực tiền bạc quá nhiều, hơn nữa nội bộ trong triều đình không thống nhất; nên nhà vua quyết định đình hoãn, tạm thời giữ Cừu Loan và Mao Bá Ôn tại kinh đô: 



Ngày 15 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 17 [13/5/1538] 



Đề đốc Lưỡng Quảng Thị Lang bộ Binh Thái Kinh tâu: 



“Có 6 đường thủy, bộ tiến quân từ Lưỡng Quảng vào An Nam; ước tính cần 30 vạn binh trong 1 năm. Tổng cộng lương thực cần 160 vạn thạch; đóng thuyền, mua ngựa, khao thưởng, khí giới, các phí tổn khoảng 70 vạn lạng bạc. Quân lính tại Lưỡng Quảng, không kể lính canh gác tại địa phương, tính cả Hán binh và Thổ binh cùng lính trưng mộ, không quá 12 vạn, chỉ đủ 1/3 nhu cầu. Lương thực, ngoài số phát hàng năm, số còn lại vận tải đến hoặc mua bán tại đây không quá 40 vạn thạch; chỉ đáp ứng ¼ nhu cầu.Tiền bạc lấy sạch từ các ngân khố được hơn 30 vạn lạng, chỉ bằng một nửa. Nếu trong thời gian đó việc binh chưa xong, thì sự phí tổn không dừng tại số đó. 



Thần cho rằng dùng mưu với giặc, cần sử dụng gián điệp dò la. Các vùng như Bằng Tường, Long Châu, Qui Thuận, Khâm Châu, cùng Hải Bình, Tây Lộ đều sát với biên giới An Nam; nên đến gần tiếp xúc quan sát, có thể biết rõ hư thực của họ, dễ dàng cho việc chiêu dụ qui phụ. Thần đã ước lượng việc điều khiển quan binh, tích trữ lương thực vào những chỗ khẩn yếu, để chấn dương uy vũ, xem xét thời cơ thuận lợi. Nếu quả Lê Ninh còn sống, dân sẽ nhớ đến chúa cũ, nên xét trao cho y chức tước; để cổ võ khí thế tiêu trừ đảng gian. Ta cho cơ hội, họ sẽ gắng sức; không có giặc nào không bình được. Nếu không như vậy thì nhân tâm nước này đã tan rã không dễ để tụ lại, ta phải điều động đại quân qua biển sóng gió, nếu bị sấm sét đánh vào thì không khỏi tổn thấtr. Vậy nhọc nhằn hoặc nhàn dật, hai phương sách không thể không xét đến.” 



Lâm Hy Nguyên Tri châu châu Liêm lại tâu thêm: 



“Nhân tâm An Nam ly tán, cha con Đăng Dung thi hành chính sách hà khắc, số đông dân chúng từng theo muốn quay về con đường chính; rào dậu của chúng không còn vững nữa, binh có thể tiến. Vả lại Đăng Dung mới đây đánh Lê Ninh và Vũ Văn Uyên mà bị thua, vậy binh lực có thể biết được; thời không nên để mất, hãy sai gấp văn vũ Đại thần cầm quân thu phục đất đai phương nam.” 



Các bản sớ được gửi xuống, Thượng thư bộ Binh Trương Tán xin được mời các phủ bộ hội nghị cùng bàn bạc việc binh đã đề nghị trước kia. Thiên tử không bằng lòng, nói rằng: 



“Việc An nam cần người biết đường lối, hiểu vấn đề; Trẫm nghe rằng các Khanh sĩ Đại phu bàn bạc riêng với nhau là không cần đánh; bọn các ngươi có trách nhiệm cả nước mà không chủ trì, việc gì cũng ủy cho hội nghị, đều không hiệp lực để lo cho quốc sự. Thôi việc trước bỏ qua!” 



Cừu Loan và Bá Ôn nay tại kinh để sử dụng riêng. [3] 



Trong tình trạng các quan do dự không quả quyết, vua Thế Tông cần một người sang nước ta dò la, để nắm chắc sự việc. Lại nhân dịp vinh danh cho ông nội là Thượng hoàng Thiên thượng đế, vua Thế Tông cử Sứ giả sang báo cho An Nam biết. Cử ba, bốn lần; các bầy tôi sợ đều tìm cách từ chối, cuối cùng gọi được viên Tả Thị lang bộ Lễ Hoàng Oản đang đóng cửa chịu tang tại nhà, đến trình diện: 



Ngày 28 tháng 1 năm Gia Tĩnh thứ 18 [16/2/1539] 



Trước đây nhân lễ tôn vinh danh hiệu lớn Thượng hoàng Thiên Thượng đế cho ông nội vua, bộ Lễ tâu xin sai Sứ dụ Triều Tiên hay biết. Thiên tử phán: 



“An Nam cũng được trời che chở, không nên vì nước này mấy năm loạn lạc mà không sai sứ cho biết. Nay hãy chọn trong đám đình thần người có tài hiểu biết văn học, thông hiểu thể chế quốc gia, mang chiếu dụ như xưa.” 



Nhân đó ty chịu trách nhiệm, dâng người hợp khả năng; Thiên tử bèn ban mệnh, nhưng ba bốn lần từ chối, nên không sai đi được. Bèn mệnh nguyên Tả Thị lang bộ Lễ Hoàng Oản, thăng chức Thượng thư bộ này, sung Chánh sứ; Hữu Xuân phòng Hữu Dụ đức Trương Trị, thăng Hàn lâm viện Học sĩ sung Phó sứ, phung chiếu thi hành. Lúc bấy giờ Oản đang cư tang tại nhà, đến triều đình trực tiếp nhận mệnh từ Thiên tử để thi hành. [4] 



Trước khi ra đi được thăng chức Thượng thư, nhưng Hoàng Oản cố tình đến kinh đô chậm trễ, lại đòi hỏi nhiều điểm, như: 

  • Được cấp ấn “Quan Phương”, để tiết chế các trọng thần tại các tỉnh gần biên giới như Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. 

  • Bắt các quan tra cứu trong Minh Thực lục, sao chép những sử liệu liên quan đến An Nam, để nắm được đầu đuôi, đến nơi có tài liệu ứng đối. 

  • Đòi hỏi một số quan phụ tá v.v..

Sự việc được ghi lại qua văn bản dưới đây: 



Ngày 3 tháng 5 năm Gia Tĩnh thứ 18 [20/5/1539] 



Nguyên Tả Thị lang bộ Lễ Hoàng Oản bị triệu đến [hành tại] Từ Châu. Tuy nhiên trước đó sai người đến tâu vì bị tật nên không đi được, nên sai kỳ hạn. Thiên tử trách Oản không đến hành tại [5] gấp, còn thuyền đến kinh sư kéo dài trì hoãn, đối với mệnh vua thực bất kính. Bắt tự khai tội trạng, rồi tha cho. Oản tâu rằng: 



“Thần phụng mệnh sứ An Nam, không dám không dốc hết lòng trung thành; nhưng nước này vốn nhiều ngụy trá, không trù hoạch đích đáng không thể được. Nếu khinh thường vào lãnh thổ, bị chúng kiềm chế, không những công việc liên quan có chỗ khó xử, mà lễ nghĩa giao dịch cũng khó định. Thần không đáng tiếc, nhưng quốc gia thì sao? Thần nguyện Bệ hạ ban cho trọng mệnh để thi hành. Vả lại các tỉnh Vân, Quí, Lưỡng Quảng đều có trọng thần cai quản; việc tại An Nam mỗi người cố chấp ý kiến riêng không ai nhường ai, thần được chỉ thị của triều đình, nhưng lời nói không bằng chứng, cần có sắc chỉ ra lệnh các địa phương quan chức lớn nhỏ đều chịu sự tiết chế của thần, lại cấp cho ấn “Quan phương” để tiện nghi hành sự.” 



Thiên tử khen vì nước nhận trách nhiệm, và chấp nhận lời thỉnh cầu. Oản lại tâu: 



“An Nam phản rồi phục tùng Trung Quốc, cùng việc nước này truyền đời hoặc, thay đổi họ nối ngôi, việc chinh thảo Lê Lợi bị thất bại; xin sắc cho Nội các khảo cứu các triều trong Thực lục [6] , phân tích những điểm giống và khác nhau; cùng sắc các nha môn chép đầu đuôi họ Lê thụ phong, cùng việc tình tội của Lê Lợi và Mạc Đăng Dung trước sau soán đoạt. Cũng chép về các Sứ thần lần lượt sai đi, tên tuổi các Quốc vương được thụ phong, cùng lai lịch duyên do các đời, có hoặc không được thụ phong. Tất cả biên chép thành sách, để thần dùng làm tham khảo ứng đối.” 



Đưa việc này xuống bộ Lễ bàn. 



Oản lại tâu: “Xưa Nhạc Dương đánh Trung sơn, thư đả kích việc này chất đầy tráp; Mã Viện đánh Giao Chỉ có lời bàn tán về tê giác, minh châu thu được. Hai người hiền này đều không miễn chê trách; nay thần cùng Học sĩ Trương Trị lo việc An Nam, cả hai đều chất phác cô lập; một lần bước ra khỏi cửa nhà vua hành trình vạn dặm, làm sao không khỏi có nhiều miệng dị nghị. Xin Bệ hạ thể tuất sai các quan Khoa đạo có tài, mỗi cơ quan một người giám sát thần làm việc. Lại xin mệnh 3 bộ Lại, Lễ, Binh chọn 2 người trong bộ có tài, biết tình hình xứ đó; giúp dò hỏi, ứng phó lúc khẩncấp; lúc đến nơi, trường hợp có việc cơ mật, thần cần thảo tờ tấu; biết cách giữ gìn hồ sơ để sự việc không tiết lậu. Lại có lời rằng cháu của Vương An Nam Lê Ninh tâu xin quản lý việc nước; Mạc Đăng Dung có biểu xin hàng; Cả hai đều tâu rằng hiện giữ ấn tín của triều đình, chẳng lẽ 1 nước 2 ấn? Nước này thường dâng biểu văn hiện tàng trong nội phủ, xin giao cho thần để phân biệt ấn văn chỗ nào giống chỗ nào khác thì thất giả có thể biết rõ.” 



Mệnh đưa xuống hai bộ Lễ, Binh họp bàn, rồi tâu lên. [7] 



Khi mọi điều đã được thỏa mãn, Oản coi việc đến An Nam như đi vào cõi chết, nên xin tưởng thưởng cho cha mẹ, nếu có mệnh hệ nào thì con được tập ấm chức tước. Hết chịu nỗi với sự cố tình đặt điều tránh né công việc, vua Thế Tông giận dữ cách chức y: 



Ngày 26 tháng 7 nhuần năm Gia Tĩnh thứ 18 [8/9/1539] 



Bãi chức Thượng thư bộ Lễ, Hàn lâm viện Học sĩ Hoàng Oản. Trước đó Oản từ Tả Thị lang bộ Lễ được thăng chức Thượng thư, sung Chánh sứ sang dụ An Nam. Chưa đi, xin ban thưởng cho cha mẹ; lại xin con cháu được hưởng ân lệ quan chức thừa kế. Thiên tử giận phán rằng: 



“ Oản nhân việc đi sứ An Nam, nhận được mệnh không tiến hành gấp, lúc đến thì kiếm nhiều lý do để từ chối. Y sợ hãi, quanh co; lại bày ra những thỉnh cầu khác. Nay cách chức, không dùng trở lại nữa…” [8] 



Tình hình bang giao lúc này không cho phép nhà Mạc nói dây dưa kiểu Sứ giả Phạm Chính Nghị tâu trong năm trước, bằng cách yêu cầu nhà Minh tự tham khảo lấy trong sách Nhất thống Chế về bản đồ và dân số. Lần này Sứ giả Nguyễn Văn Thái phải nghiêm chỉnh kê khai rõ về nhân khẩu và đất đai: 



Ngày 24 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 18 [14/3/1539] 



Đầu mục An Nam Mạc Phương Doanh [9] sai Sứ thần Nguyễn Văn Thái dâng biểu đến trấn Nam Quan xin hàng, nhân hiến sổ hộ khẩu đất đai. Biểu văn như sau: 



“Thần cúi đầu trước lòng nhân từ của Thánh nhân tha sự sai lầm, khoan hồng tội lỗi, sợ trời tuân mệnh là bổn phận của tiểu quốc. Thần trộm nghĩ bản quốc đất đai dân chúng đều là sở hữu của Thiên triều; kể từ họ Trần cho đến lúc tuyệt dòng, họ Lê nối theo đều tuân theo mệnh của Thiên triều. Trước đây Quốc vương trước của Thần là Lê Trừu [vua Lê Tương Dực] bị hại lại không có con, người trong nước đồng lòng suy cử cháu là Lê Huệ [vua Chiêu Tông] quyền coi việc nước, Lê Huệ bệnh chết không có con, người trong nước lại suy tôn em là Lê Quảng [Lê Cung Hoàng] coi quốc sự; Lê Quảng tuổi trẻ nhiếp chính trong vòng 6 năm, trong nước có loạn, đường sá ngăn trở, chưa kịp xin mệnh của triều đình. Rồi Lê Quảng bất hạnh vướng tật, không có con cháu nối dõi; cha thần Mạc Đăng Dung là cựu thần có chút công, nên được chiếu ủy quyền coi quốc sự. Cha thần trên nhận lời phó thác của họ Lê, dưới bị người trong nước thỉnh ép; trong lúc bối rối, tuân theo Di tục biết rằng đắc tội với Thiên triều, nhưng nếu tránh đi thì nước thần không có người thống nhiếp; cha Thần bất đắc dĩ cẩn thận giữ ấn mà Thiên triều đã ban cho, tập hợp phủ dụ thần dân, rồi giao cho thần. Thần lo rằng chủ cũ Lê Quảng chưa được phép triều đình mà giao cho cha thần; cha thần cũng chưa bẩm với triều đình mà nhận lấy từ Lê Quảng, rồi giao cho thần. Kẻ đưa người nhận đều sai trái. Cha con thần cam chịu tội chuyên quyền, nên mấy lần sai đầu mục nước này là Phạm Chính Nghị, Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Độ tâu bày và trần tình tội lớn, nhưng Thiên triều quan ải thâm nghiêm, nhiều năm không có một sứ nào đến được. Cha con thần ngày đêm lo lắng, ăn không biết ngon, ngủ không yên chiếu; đành cam nhận tội chậm trễ. Tuy nhiên cửa Thánh cho phép sửa lỗi lầm, biết thú tội thì phép Vương sẽ khoan dung; nhờ Hoàng đế Bệ hạ bao quát vô tư đặc sai Trấn Phủ Lưỡng Quảng, Vân Nam tuyên dụ triều đình uy đức, tra khám sự tình bản quốc để cha con thần có chổ trần tình biện bạch. Thần kính cẩn tâu thực số đất đai nhân dân, kính mong triều đình phân xử, ban mệnh cho thần dân nước này, cùng khoan thứ cho tội lớn như gò núi của cha con thần; để cả nước thần được hàm ân công đức sinh thành giáo hóa; kính cẩn dâng biểu trần tình thú tội. Ngoài ra giới hạn bản quốc đất đai có 53 phủ, 176 huyện, 49 châu, 30 vạn hộ, 175 vạn nhân khẩu.” 



Ngay lúc đó Trấn Tuần Lưỡng Quảng đem biểu xin hàng tấu gấp. Chiếu sai hai bộ Lễ, Binh họp bàn rồi tâu lên. [10] 



Biểu xin hàng của Mạc Phương Doanh báo cho biết họ Mạc không có sức đề kháng đáng lo ngại, Minh Thế Tổ được sự nhất trí của đám quần thần, điều động Cừu Loan và Mao Bá Ôn đến Lưỡng Quảng lo việc nam chinh: 



Ngày 26 tháng 7 nhuần năm Gia Tĩnh thứ 18 [8/9/1539] 



 

Bộ Binh họp đình thần lại, hội nghị rồi tâu rằng: 



“Họ Lê vốn là thần dân, nghĩa không thể bỏ được, còn cha con bầy tôi Mạc Đăng Dung bức chúa chiếm lấy nước, tội đáng phải thảo phạt. Mới đây tuy sợ uy, hối cải sai lầm, dâng biểu xin hàng; nộp sổ ghi đất đai, nhân dân, cung kính xin phân xử; lời van xin cũng đáng thương. Nhưng dân Di phản phúc ngụy trá khó tin; xin ban sắc như trước đã định, mệnh Hàm ninh hầu Cừu Loan, Thượng thư bộ Binh Mao Bá Ôn đến Lưỡng Quảng, Vân Nam điều động các xứ quan binh Hán Thổ; chiêu dụ Thổ quan An Nam qui thuận như Đèo Lôi, cùng bọn cựu thần họ Lê bọn Vũ Văn Uyên thao luyện tụ tập binh lương, đễ sẵn sàng việc chinh thảo. Nếu cha con Mạc Đăng Dung âm mưu thì tiến quân chinh phạt, chính pháp triều đình; nếu bó thân đợi mệnh, quả không có lòng dạ nào khác, thì ban hịch tức khắc rằng triều đình sẽ tha cho tội chết, cũng như mùa xuân vạn vật sinh, mùa thu chết, nhân nghĩa kiêm toàn, không phản với đạo trời.” 



Thiên tử chấp nhận. Bèn mệnh Loan lãnh ấn Chinh Di Phó tướng quân, Mao Bá Ôn ấn Quan Phòng Tham tán quân vụ, phụng sắc Nam chinh. [11] 



Một số quan lại như Tri châu châu Khâm không hiểu rõ ý định của vua Thế Tông chỉ thị uy lấy tiếng, nên đề nghị mở rộng xâm lăng. Những ý kiến này bị nhà vua chê là hàm hồ, không cho bàn thêm: 



Ngày 6 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 19 11/5/1540 



Tri châu châu Khâm, Lâm Hy Nguyên dâng biểu rằng: 



“Thần nghe nói rằng Mạc Phương Doanh An Nam, xin hàng; đặc mệnh Đại thần tra khám. Kẻ hàng nạp sổ sách ghi đất đai, dân số để hiến; nay giết quân lính của ta, cướp chiến thuyền của ta, hàng mà như vậy ư? Nay gửi đại thần đến khám hỏi; vậy khám gì đây? Nếu khám xem nước đó, hoặc các phe phái hàng hay dối trá, thì thực tình không hay biết được. Khám về biên giới, thì các trọng thần nơi biên cương đã làm rồi; ai dám trả lời khác được. Thần nghĩ rằng muốn biết tình thật, bắt giao ước những điều sau đây: phải trả cho ta 4 động, lệnh không để Lê Ninh bị mất ngôi vị, lệnh để cựu thần nhà Lê như Trịnh Duy Liêu, Vũ Văn Uyên không mất chức tước và đất, tuân theo lịch chính sóc. Theo những điều của ta là hàng, không theo là ngụy trá. Nhân đó hưng binh hỏi tội, lại được sự trợ giúp của lực lượng thuận tòng, thì trận nào mà chẳng thắng.” 



Lại bảo: 



“ Chỗ dựa của Phương Doanh là Đô Trai, vùng này gần biển, bùn lầy hơn 10 dặm, thuyền không ghé được. Kế hoạch của chúng nếu kinh thành không giữ được thì chạy đến Đô Trai, Đô Trai không giữ được thì chạy ra biển. Nếu quân ta tại Đông Hoàn, Quỳnh Hải giúp Chiêm Thành đánh về phía Nam, thì giặc không chạy được. Lấy quân Phúc Kiến vượt biển từ cửa Chi Phong, quân Hồ Quảng xuất phát từ châu Khâm, hợp lại đánh Đô Trai, bọn chúng không còn sào huyệt. Quân Quảng Tây đánh từ Bằng Tường, quân Vân Nam, Quí Châu đánh từ Mông Tự; hai quân hợp lại đánh Long Biên, tức cội gốc bị nhổ, giặc họ Mạc có thể định được.” 



Ngoài ra còn dâng 4 thư bàn về phương lược. Tuy nhiên lập luận này bị Ngự sử Tiền Ứng Dương chỉ trích như sau: 



“Bí mật phương lược của Hy Nguyên chỉ nhặt lời bàn ngoài đường, không đáng nghe!” 



Thiên tử phán: 



“Việc An Nam đã sai trọng thần đến bàn định; các quan khác không được nói hàm hồ thêm nữa. [12] 



Kế hoạch mà bọn Mao Bá Ôn và Cừu Loan vạch ra, tóm tắt cũng chỉ là “cây gậy” và “củ cà rốt”, mà người bấy giờ gọi đánh và chiêu phủ. Vua Thế Tông chấp nhận, nhưng nhấn mạnh ý đồ là phải “đạt thành công yên ổn cho cả Trung quốc và An Nam”: 



Ngày 28 tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 19 [31/7/1540] 



Hàm ninh hầu Cừu Loan và Thượng thư Mao Bá Ôn tâu: 



“Mạc Phương Doanh phản nghịch theo pháp luật đáng tru diệt, nghe đồn nó đã chết, có thuyết nói bị sét đánh chết, tung tích ngụy trá bí mật. Nếu chúng không chịu phục tòng ngay; thì hai kế hoạch về đánh và chiêu phủ phải tiến hành. Cần dùng quan quân Hán, Thát cùng thủy quân tại Quảng Đông gồm 36.000 người; Thổ binh tại Quảng Tây gồm 75.000 người, 38 vạn thạch lương, 88 vạn lạng bạc, 60 vạn con ngựa. Cũng xin điều quân Thổ tại Vĩnh Thuận, Bảo Tĩnh Tuyên ủy ty thuộc tỉnh Hồ Quảng; thủy quân tại Chương Châu, Tuyền Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Xin thỉnh cầu lưu dụng số tiền thuế lương thực, thuế mỏ bạc gồm 23.700 lượng, tiền thuế muối, sắt 107.000 lượng mà ty Bố chánh Quảng Đông chưa nạp về kinh. Các quan Lưỡng Quảng, Vân Nam đáng phải về triều như Hữu Bố chánh sứ Hồ Tông Minh, cùng các chánh quan tại các ty, phủ, châu, huyện, được miễn về chầu tại triều. Trương Nhạc Am nguyên Tri phủ châu Liêm, nay thăng Tham chính Chiết Giang, am hiểu tình hình bọn Di, nên cải điều về Quảng Đông giữ Hải Bắc để chuẩn bị việc tiến quân.” 



Bộ Binh trình cho biết, Thiên tử đều chấp nhận và phán: 



“Việc An Nam Trẫm đã giao cho hai quan Đại thần lo liệu, tội cha con Phương Doanh thần và người đều muốn giết, nếu y còn sống thì cũng bị chết. Vì rằng sinh linh phương xa từ lâu bị đày đọa, Thiên binh thảo phạt thì chưa đến nơi; khanh hãy truyền bảo hai Đại thần dốc tâm trù liệu, để đạt thành công yên ổn cả Trung Quốc và An Nam. Mọi lời tâu về lưu dụng hoặc điều dụng quan viên; cùng lưu giữ tiền thuế đều chấp nhận, theo lời xin mà thi hành. Từ nay trở về sau việc tâu quân tình tại An Nam đến các cơ quan trách nhiệm, tấu phúc không quá 3 ngày.” 



Lại ban chiếu cho lưu tại ty Bố chánh Quảng đông tiền thuế lương thực, muối trong các năm Gia Tĩnh thứ 17, 18, để chuẩn bị lương và thực phẩm cho quân. [13] 



Nhà Minh chưa ra quân, thì lại xẩy ra một cuộc khủng hoảng khác từ trong nội bộ. Hàm ninh hầu Cừu Loan bắt viên Trấn thủ Vân Nam Đề đốc Liễu Tuần mặc quân phục đến lạy trước hàng quân để nhận lệnh. Liễu Tuần gửi kháng thư đến triều đình, vua Thế Tông bèn gọi Cừu Loan về và cho Tuần thay thế. Một võ quan cấp bực lên đến tước Hầu như Cừu Loan, ắt phải hiểu lời dạy trong binh thư rằng “quân môn tức hòa môn” [14] ; vậy bắt một viên Tư lệnh cánh quân Vân Nam phải quì lạy chỉ có thể hiểu được là hành động phá bĩnh; chắc Cừu Loan cho rằng cuộc chiến với An Nam nếu phải xẩy ra thì chỉ là món gân gà của Tào Tháo rất khó nuốt, nên tìm cách thoát ra khỏi vòng: 



Ngày 21 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 19 [20/10/1540] 



Khi Hàm ninh hầu Cừu Loan đến Quảng Tây, đeo ấn tín của triều đình ban cho, bèn ra lệnh cho Trấn Thủ Vân Nam Đề đốc Liễu Tuần mặc quân phục, đến quì trình diện trước hàng quân. Tuần không tuân, và đưa thư chỉ trích Loan, cùng làm đơn khiếu nại đến triều đình. Thượng thư bộ Binh không giải quyết được, bèn trình lên Thiên tử quyết định. Thiên tử khiển trách Loan không thể tin cậy được, tự cao với chức quyền, ra lệnh Loan trở về kinh đô. Tuần được lệnh giữ ấn Phó Chinh Di Tướng quân và cùng Mao Bá Ôn lo liệu về việc An Nam. [15] 



Dù có Cừu Loan hay không thì mọi việc vẫn được tiến hành dưới sự sắp xếp của Mao Bá Ôn. Trước hết Sứ giả của Mạc Đăng Dung đến gặp, được Bá Ôn chỉ cho biết những nghi thức về lễ xin hàng, cùng những điều kiện được hưởng. Đến ngày đã định, Mạc Đăng Dung cùng đám bầy tôi đến nơi làm đúng như lời chỉ bảo, dâng tờ biểu, rồi được tha tội. Gọi là hàng, nhưng thực chất quan quân nhà Minh không hề đặt chân đến nước ta để kiểm soát, mọi việc nội bộ do nhà Mạc toàn quyền quyết định. Với chủ trương thực dụng, vua Thế Tông và Mao Bá Ôn gạt phe Lê Ninh ra một bên, vì lực lượng phe này lúc bấy giờ chẳng có là bao; bào chữa việc làm này vua Thế Tông cho rằng họ Lê (Lê Quí Ly, Lê Lợi) không trung thành bằng họ Mạc. Nhìn qua các điều kiện về sự đầu hàng, thấy được quỹ “tín dụng” về truyền thống chống ngoại xâm của ta quá cao, nên nhà Minh tránh không dám mang quân vào gây hấn: 



Ngày 4 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 20 [29/4/1541] 



Trước tiên Hàm ninh hầu Cừu Loan, Thượng thư bộ Binh Mao Bá Ôn phụng mệnh, bàn kế hoạch đánh An Nam như sau: 



“Từ Quảng Tây trưng điều quan binh Hán Thổ Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, Hồ Quảng. Gửi hịch đến Vân Nam lệnh tập hợp các quan ty bàn định kế hoạch. Phân chính binh làm 3 cánh, phân kỳ binh [16] làm 2 cánh, binh tại các xứ như núi Điểu Lôi làm thành cánh đường biển.” 



Lại bàn: 



“Binh Vân Nam tập hợp riêng, từ thác Liên Hoa chia làm 3 cánh; do Kiềm quốc công Mộc Triều Phụ, An Viễn hầu Liễu Tuần, Đề đốc quân vụ Thị lang Thái Kinh, Tuần phủ Đô ngự sử Uông Văn Thịnh xếp đặt. Lại truyền hịch cho thần dân An Nam biết chủ trương phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt của triều đình; chỉ đánh giặc là cha con Mạc Đăng Dung mà thôi, nếu ai mang quận huyện đến hàng sẽ được giao cho cai quản chính quận huyện đó; giết hoặc bắt cha con Mạc Đăng Dung đem đến hàng được thưởng 20.000 [lạng] vàng, quan cao, tên tuổi được ghi công hai ba lần. Dụ cha con Đăng Dung quả muốn trói tay chịu tội, nạp đủ số hộ tịch nhân dân, nạp cống, tuân theo mệnh, sẽ được tha tội chết. Bá Ôn trú quân gần biên giới, Đăng Dung nghe tin, sai Sứ đến cửa quân xin hàng, lời lẽ rất khiêm tốn. Bọn Bá Ôn đã được lệnh trước của triều đình, nên cho hẹn vào ngày 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 19 [1540] đến hàng. Lúc này con Đăng Dung là Phương Doanh đã chết, cháu là Phúc Hải ở lại trông coi nước; Đăng Dung và cháu là Văn Minh và Tù trưởng là bọn Nguyễn Như Quế hơn 40 người cầm thước, đeo dây lụa quanh cổ [17] , đi chân trần khúm núm đến nơi thiết triều nghi dâng biểu xin hàng; lại khúm núm đến cửa quân dâng sổ hộ tịch, đất đai, quân số, và xin được phân xử. Việc châu Khâm tâu rằng bị chiếm đất 4 động, tình nguyện đưa đất đó vào nội thuộc. Lại xin được ban lịch Chính Sóc và xin được giữ lại ấn cũ [18] để đợi sự định đoạt. 



Ngay lúc đó Bá Ôn tuyên dụ uy đức của triều đình, rồi cho tạm thời trở về nước để đợi mệnh. Bá Ôn cùng các quan Thủ thần dâng sớ: 



“An Nam sợ uy tự trói mình chịu tội; Lê Ninh kia tự xưng là dòng dõi nhà Lê, nhưng phổ hệ [19] không rõ ràng, không có gì để kê cứu. Xin tha cho Đăng Dung, bắt bỏ tước cũ, rồi xét để ban cho chức tước mới. Lại sai người đưa Văn Minh cùng các Tù trưởng đến kinh đô để dâng biểu xin hàng. Biểu như sau: 



“Thần trộm tâu rằng chúa cũ họ Lê cuối đời gặp cảnh truân chiên, lần lượt mất. Đến Lê Quảng [vua Lê Cung Hoàng] trông coi nước chưa được bao lâu, lại bị bệnh nguy kịch. Lúc lâm chung thảng thốt cẩu thả theo thói tục Di trao chức cho thần, thần lại trao cho con là Phương Doanh; sự việc chưa kịp tâu lên, đành mắc tội chuyên quyền. Tuy rằng kinh khuyết xa vạn dặm khó đến để tâu xin, nhưng tội lớn tầy trời không thể che dấu trong sự tăm tối. Vào năm Gia Tĩnh thứ 16 [1538-1539] cha con thần cẩn thận sai bọn Nguyễn Văn Thái dâng biểu xin hàng và xin được phân xử; nhưng lòng thành không đạt đến nơi, nên không xúc động được tấm lòng của Thánh Thiên tử; trong lòng ngày đêm buồn lo không chút yên ổn. Ngày 25 tháng Giêng năm Gia Tĩnh thứ 19, con thần là Doanh chẳng may mất sớm, người trong nước theo tục xưa muốn đưa con trưởng của Phương Doanh là Phúc Hải lên thay thế, để coi sóc dân chúng; thần nghĩ việc trao chức và nhận chức trước kia đã không ổn, nay nếu chiều theo lời xin của dân chúng thì tội càng nặng thêm, không có thể tự gỡ ra được; nên thần và cháu Phúc Hải chỉ biết đợi mệnh triều đình. Chẳng bao lâu Đại tướng mang trọng binh đến sát biên giới, thần như heo trong chuồng lấy gì mà chống cự, chỉ lo cho người trong nước bị nguy trong sớm tối. May mắn thấy hịch truyền ra từ cửa quân, kính cẩn nhận lời ban của Thiên tử từ ái vô biên, thần rơi nước mắt cảm động. 



Thiết nghĩ rằng thần Đăng Dung có tội, còn dân đen vô can. Thiên tử không nỡ vì lỗi của riêng thần, mà chém giết dân chúng. Thần may mắn được vì dân chúng, nên không tiếc chút hơi tàn. Bởi vậy từ trong nước ngưỡng vọng núi Tung sơn nơi phương bắc, hô Tiểu mục Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Thực; kỳ lão Lê Thuyên, nhân sĩ Nguyễn Kinh Tế; vào ngày mồng 3 tháng Một năm Gia Tĩnh thứ 19 đeo giây vấn cổ, ra khỏi biên giới, rập đầu xin hàng. 



Thần Đăng Dung muốn được đến kinh đô chiêm bái và xin chịu tội chết, nhưng thân già không thể lom khom tới nơi, cháu nội thần Phúc Hải đang chịu đại tang không thể đi xa; thần chỉ biết sai cháu là Mạc Văn Minh, cùng với quan cựu thần triều cũ là Hứa Tam Tĩnh, Nguyễn Giản Thanh [20] ; tiểu thần Nguyễn Giá Tộ đến kinh khuyết chịu tội. Cúi mong Thánh triều thương xót tha tội, cho tự đổi mới, đất đai đều là của Thiên triều [21] , chỉ xin được theo ý nguyện của dân Di, tùy nghi mà khu xử; được nội thuộc, mãi mãi xưng phiên thần; cùng xin theo lệ phiên thuộc được ban lịch Đại Minh Nhất Thống để in ra, truyền bá trong nước cùng phụng sự lịch Chính Sóc thì thật là may mắn to lớn. Tuy tại nước thần các họ Đinh, họ Trần, họ Lê kế tục xưng hiệu và kỷ nguyên, riêng thần đã nghiêm lệnh người trong nước bỏ đi, để đợi mệnh; đâu dám dẫm vào sự sai lầm cũ, để hứng lấy sự trừng phạt của Thiên triều. 



Mới đây thần nghe Tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông Lâm Hy Nguyên xưng rằng các động Ti Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Thiếp Lãng là đất cũ của châu Khâm; nếu đúng như vậy thần xin vâng lời. Nước thần trước đây khiếm khuyết việc triều cống, từ các năm sau xin chia ra để cống bù vào lệ cống phương vật hàng năm. Thần không dám nói cẩu thả, vì đương chịu tội, cầu miễn tội chết mà còn chưa được! Nhưng thần và người trong nước muốn theo lệ triều trước, hiến người vàng người bạc thay thế, sợ bị tội đường đột nên tâu lên để được chỉ giáo. Còn ấn Thiên triều ban cho Quốc vương trước kia, thần Đăng Dung chỉ dám cẩn thận giữ, không dám tự tiện dùng.” 

Ngoài ra Di mục Nguyễn Như Quế tâu thêm vào sớ: 

“Đăng Dung thực được Quảng phó thác; vì đường sá cách trở nên chưa tâu lên triều đình được. Nay họ Lê đã tuyệt tự không có người nối dõi, xin tha thứ cho Đăng Dung tội, để được cai quản dân chúng, hầu miễn được sự loạn lạc khác.” 

Chiếu ban xuống cho đình thần bàn, rồi tâu lên rằng: 

“ Nên theo lời xin của Bá Ôn và xin đặt quan chức, ban lịch chính sóc, định thể thức cống, cấp ấn tín, lấy lại 4 động, nhận sự đầu hàng, khoản đãi sứ Di, khám về việc Lê Ninh, tra xét về binh mã v.v..” 

Thiên tử phán: 

“An Nam thời xưa thuộc Trung Hoa, đời Tống được ban tước Vương nên bắt đầu chìm đắm vào Di tục; đến cuối đời Trần lại biết mộ điều phải nạp cống, được vua Thái Tổ ta khen thưởng, dặn con cháu không đánh nước này. Lòng nhân của Đế Vương đối với nước này hậu lắm thay! Chỉ nhân việc viên quan nước này là Lê Quí Ly giết vua Trần Nhật Côn, lại giết cả người cháu là Trần Thiêm Bình, đại nghịch bất đạo vị Văn Tổ [vua Thái Tông] giận dữ, sai tướng bình định chia làm quận huyện, để đưa người Giao Chỉ ra khỏi nước lửa. Không ngờ Lê Lợi lại quấy mưu gian, lừa dân chúng làm loạn, rồi dùng lời lẽ bất chính xin phong tước. Hoàng đế Tuyên Tông ta muốn quân được nghĩ ngơi, lại nhớ đến lời của vua Thái Tổ xưa, vì họ Trần mà thương xót dân Giao Chỉ, nên bỏ qua không hỏi đến. Qua mấy triều đại, đến khi ta lên ngôi đã lâu mà không thấy họ Lê triều cống, bèn sắp sai người phạt tội, nhưng rồi sự việc được tra khám, tâu lên mới biết rằng có cha con Mạc Đăng Dung chiếm nước. Nhân tội trạng chưa rõ ràng, lại sợ đánh giết sẽ phạm vào người dân vô tội, nên tạm sai văn võ Đại thần tùy theo tình trạng mà chiêu phủ hay tiễu trừ. 

Nay Mạc Đăng Dung tự trói đến cửa quân xin chịu tội, khác với hai họ Lê kia [chỉ Lê Quí Ly, Lê Lợi] hung hãn. Xem biểu xin hàng, cùng người trong nước thay thế trần tình, xin được tha thứ để lo cho dân Giao, xin bỏ tước Vương, không gọi là nước để miễn loạn tặc tiếp tục làm phản. Lại nói rằng họ Lê không có người nối dõi, và từ lâu người Giao đã qui phụ Đăng Dung; xin chuẩn cho nhận chức, ban ấn, được phụng thờ lịch Chính Sóc, triều cống và xin được đặt quan chức tại địa phương để cai trị dân. Triều đình không mưu lợi đối với dân này, đất này; bộ Binh, Hộ, Lễ hãy triệu tập đình thần họp bàn rồi tâu lên.” 

Sau khi bàn bạc rồi phúc tấu, Thiên tử mệnh: 

“Giáng nước An Nam làm An Nam Đô thống sứ ty, cho Mạc Đăng Dung làm quan An Nam Đô thống sứ Tòng Nhị phẩm, con cháu thế tập, được cấp ấn bạc. Tất cả các hệ thống trộm thiết lập trước kia đều bị hủy bỏ; đặt ra Tuyên phủ ty cho 13 lộ như Hải Dương, Sơn Nam vv..mỗi nơi đặt môt viên Tuyên ủy Đồng tri Phó sứ Thiêm sự. Đăng Dung được quyền thăng, giáng, chuyển đổi, hoặc cho thế tập. Ty Phiên Quảng Tây mỗi năm cấp lịch Đại Thống để phụng theo Chính Sóc, vẫn ra lệnh 3 năm cống một lần, hoàn lại 4 động đã xâm chiếm cho châu Khâm, lệnh Phủ thần Lưỡng Quảng gia tăng thưởng tuất. Không cần phải phúc trình về số lượng tiền, ngũ cốc, binh giáp. Lệnh Thủ thần khám hỏi về việc Lê Ninh, nếu là con cháu họ Lê thì cấp cho 4 quận đang chiếm giữ để nối dõi, nếu không thì bị truấtr. Mạc Văn Minh và các Sứ thần khác của Di và những người bạn tống đều được ban thưởng... [22] 



Biểu tóm tắt các điều kiện đầu hàng



Danh Thực 
Giáng từ nước An Nam xuống Đô thống sứ ty An Nam.
Giáng từ tước Vương xuống Đô thống Tòng Nhị phẩm.
Đổi 13 lộ thành 13 Tuyên phủ Ty.
Bỏ ấn vàng cấp ấn bạc.
Con cháu được thế tập nối dõi.
Phải đưa nạp cho Trung Quốc 4 động.
Không phải trình báo về tiền, lương thực, binh giáp.
Được quyền tuyển đổi, thăng giáng, thế tập quan chức.
Không có quan quân Minh trong nước. 





Trong số người tham dự cuộc đầu hàng có hai khoa bảng nổi tiếng triều Lê là Nguyễn Giản Thanh, tức Trạng Me và Hứa Tam Tĩnh, tức Trạng Ngọt; tên tuổi hai vị này đều được khắc trên bia đá tại nhà Văn Miếu, Hà Nội; riêng Nguyễn Giản Thanh còn để lại tác phẩm như Thương Côn Châu Ngọc Tập, và Phụng Thành Xuân Sắc Phú. Trong hoàn cảnh không quá bức bách, lúc này (1481 ? ) Nguyễn Giản Thanh đã đã 60 tuổi, Hứa Tam Tĩnh chắc cũng tuổi tương tự, hai người có thể lấy cớ già yếu để khỏi lặn lội đến ải Nam Quan, khúm núm làm lễ qui hàng. Nhưng hai người này đều có mặt! Việc làm của hai kẻ sĩ này khó giải thích, phải chăng các vị đã dựa vào câu nói của thầy Mạnh Tử Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh để hành xử? 



Xét thời cuộc lúc bấy giờ đất nước chia rẽ “năm phe, bảy phái”; để quân Minh tràn vào lúc đó là một thảm họa, nên đành chọn giải pháp đầu hàng có tính cánh hình thức để dân được yên chăng? Gọi là hình thức vì trong nước vẫn còn vua nhà Mạc là Phúc Hải cầm quyền, nếu trong trường hợp bị phản bội còn có thể xoay xở được; còn điều kiện đầu hàng, như trongbiểu tóm tắt ghi, thì không có một tên lính hoặc quan lại nhà Minh có mặt tại nước ta. 



Xét về phương diện xã tắc ta mất 4 động Ti Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Thiếp Lãng, được gọi là đất cũ của châu Khâm; phần mất mát đó không đến nỗi quá lớn. 



Còn về quân vi khinh, thì hãy trích những lời trong tờ biểu của Mạc Đăng Dung: 



“Thiết nghĩ rằng thần Đăng Dung có tội, còn dân đen vô can. Thiên tử không nỡ vì lỗi của riêng thần, mà chém giết dân chúng. Thần may mắn được vì dân chúng, nên không tiếc chút hơi tàn.” 



Phải chăng trong chặng đường cùng, người đứng đầu nước là Mạc Đăng Dung và cả kẻ sĩ như Nguyễn Giản Thanh, Hứa Tam Tĩnh đã chọn dân làm ý thức hệ để nương dựa? 



15/7/2007 




[1]Minh Thực lục v. 80, tr.4282 4283; Thế Tông q. 205, 4b 5a.
[2]Minh Thực lục v. 80, tr. 4341-4343; Thế Tông q. 210, tr.4a 5a.
[3]Minh Thực lục v. 80, tr. 4350-4352; Thế Tông q. 211, tr. 2b 3b.
[4]Minh Thực lục v. 80, tr. 4549-4550; Thế Tông q.220, tr. 9a 9b.
[5]Hành tại là nơi vua trú khi đi ra khỏi kinh đô.
[6]Chỉ Minh Thực lục.
[7]Minh Thực lục v. 81, tr.4647-4649; Thế Tông q. 224, tr. 4a 5a.
[8]Minh Thực lục v. 81, tr.4647-4649; Thế Tông q. 224, tr. 4a 5a.
[9]Theo sử nước ta gọi Mạc Phương Doanh là Mạc Đăng Doanh.
[10]Minh Thực lục v. 81, t, 4593-4595; Thế Tông q. 221, tr.16a 17a.
[11]Minh Thực lục v. 81, tr. 4719-4721; Thế Tông q.227, tr. 8a 9a.
[12]Minh Thực lục v. 81, 4815-4817; Thế Tông q.236, tr. 2a 3a.
[13]Minh Thực lục v. 81, tr. 4849-4850; Thế Tông q.238, tr.8a 8b.
[14]Quân môn tức hòa môn: ý nói trong quân nội bộ phải hòa thuận.
[15]Minh Thực lục v. 81, tr. 4880; Thế Tông q.241, tr. 4b.
[16]Kỳ binh: loại quân đặc biệt dùng để tập kích.
[17]Đeo dây biểu thị tự trói mình, cầm thước tượng roi biểu thị tự nhận hình phạt.
[18]Ấn cũ: ấn trước kia ban cho vua Lê.
[19]Phổ hệ: gia phả ghi từng đời trong họ nhà vua. Theo Toàn thư Lê Ninh tức vua Trang Tông là con vua Chiêu Tông. Khi Mạc Đăng Dung tiếm hiệu cướp ngôi, vua tránh về Thanh Hóa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn kim cho người dò tìm, đón vua sang nước Ai Lao tôn lập.
[20]Hứa Tam Tĩnh và Nguyễn Giản Thanh là hai vị khoa bảng triều Lê, cùng dự một khoa thi Hội. Nguyễn Giản Thanh đậu nhất giáp Tiến sĩ (Trạng nguyên) năm Đoan Khánh thứ 4 [1508], khoa đó trong kỳ thi hội bài của Hứa Tam Tĩnh hay hơn bài của Nguyễn Giản Thanh, nhưng khi vào thi Đình thì bài phú Phụng Thành Xuân Sắc của Nguyễn Giản Thanh hay hơn, nên được lấy đỗ Trạng nguyên cao hơn Hứa Tam Tĩnh. Người địa phương có câu Trạng Me đè Trạng Ngọt vì làng Me là tên làng quê của Nguyễn Giản Thanh, làng Ngọt là tên Nôm làng của Hứa Tam Tỉnh. (theo Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, q. 2, mục 292.)
[21]Câu này lấy từ lời nói sáo xưa Phổ thiên chi địa mạc vi vương thổ (đất đai khắp cõi trời này, không chỗ nào mà không thuộc về Thiên tử); chứ không phải thực sự dâng hết đất đai cho Trung Quốc.
[22]Minh Thực lục, v. 82, trang 4966-4973; Thế Tông q. 248, tr. 1b 5a.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và phát triển – Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế, các số 3(62) (tr. 109-122) & 4(63) (tr. 106-117), 2007
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12245&rb=0401

0 Response to "Đối sách của Mạc Đăng Dung qua tường thuật của Hồ Bạch Thảo"

Đăng nhận xét

Vui lòng không Spam. Thanks các bạn